VRNs (10.12.2013)
– Hà Nội – Có ý kiến thắc mắc liệu đi đến các Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
có phải là đi hành hương không, hay đó chỉ được gọi là một việc kính Đức
Mẹ? Hành hương có phải là buộc phải rời khỏi nhà đi đến một thánh địa
xa xôi? Để trả lời câu hỏi này, có lẽ chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của
việc hành hương là gì, những thay đổi của khái niệm này trong dòng lịch
sử diễn ra như thế nào, và nhất là khái niệm “hành hương” có ý nghĩa gì
trong xã hội hôm nay.
Cựu Ước
Hành hương
là một hành trình đi đến một thánh địa vì một lý do tôn giáo nào đó.
Đây là một nét tôn giáo đặc trưng xuyên suốt dòng thời gian và văn hóa.
Tại vùng Cận Đông cổ, các đền được xây tại linh địa vì người ta tin rằng
một số hoạt động của thần thánh đã xảy ra tại đây (ví dụ câu truyện về
giấc mơ của ông Giacóp tại Bết Ên trong St 28,10-22 có thể được dùng để
giải thích sự hiện diện của đền thờ Chúa ở đó).
Các vua
Đavít và Salômôn khởi đầu tiến trình làm cho Giêrusalem có được vị trí
độc nhất tại Israel. Vua Đavít đã biến thành phố này thành trung tâm tôn
giáo của đế quốc (2Sm 6,12-19) và vua Salômôn xây Đền thờ tại đó (1V
6). Ngôi Đền này càng làm cho thành Giêrusalem trở thành trung tâm của
các chuyến hành hương.
Địa vị này
của Đền thờ Giêrusalem được nhấn mạnh trong sách Đệ Nhị Luật với đòi
buộc phải hành hương đến “nơi Thiên Chúa chọn để Danh Người ngự” (=
Giêrusalem) ba lần mỗi năm. Ba lễ hội hành hương đó là lễ Vượt Qua/Bánh
Không Men, lễ Các Tuần (Ngũ Tuần), và lễ Lều (Lều Hội Ngộ) (Đnl 16,16).
Theo Tin
Mừng thánh Gioan, chính Chúa Giêsu cũng nhiều lần hành hương Giêrusalem
(Ga 2,13; 5,1; 7,2-10). Tin Mừng Nhất Lãm thì chỉ ghi lại một lần Chúa
Giêsu hành hương Giêrusalem trong sứ vụ của Người, vào dịp lễ Vượt Qua,
và Người chết vào dịp đó.
Tân Ước
Dù
việc đi hành hương là một thực hành tôn giáo có nguồn gốc từ xa xưa,
được nhấn mạnh trong thời Cựu Ước, và dù là một trong ba tôn giáo độc
thần, nhưng Kitô giáo không quy định hành hương là một bổn phận tôn
giáo.
Tân Ước
cho thấy Đền thờ Giêrusalem thu hút rất đông dân chúng đến hành hương
(Lc 2,41-45; Ga 12,20; Cv 2,1-10). Những cuộc hành hương lên Giêrusalem
thật gian khổ, dù tại phần đất nào đó của xứ Palestine hoặc từ bên ngoài
(Diaspora). Những người hành hương thường đi thành từng nhóm để trợ
giúp và bảo vệ nhau (Tv 42,4; 55,14; Lc 2,44). Sách Thánh Vịnh giữ lại
một số bài hát mà người hành hương hát trên đường đi. Những bài ca này
thường ghi đậm nét háo hức mong chờ và niềm vui (các Tv 24, 84, 118,
120-134).
Tân Ước đã
thiêng liêng hóa ý tưởng hành hương bằng cách mô tả đời sống Kitô giáo
như một cuộc hành hương tiến về quê hương thiên đàng (Hr 11,13-16; 1Pr
1,17; 2,11). Khác Kinh Thánh Hípri, Tân Ước không đòi buộc hành hương
như một bổn phận tôn giáo. Dù vậy, các người hành hương Kitô giáo cũng
đã đi đến Thánh Địa như đi hành hương ngay từ đầu thế kỷ II CN.
Đến thời
Trung Cổ, các cuộc thập tự chinh bùng nổ như một nỗ lực bảo vệ quyền của
các Kitô hữu được đến viếng những địa điểm hành hương này, sau khi xứ
Palestine được trao vào tay người Hồi giáo kiểm soát.
Truyền thống phụng vụ và mục vụ
Hạn từ
“hành hương”, ám chỉ một thực hành chung của nhiều kinh nghiệm tôn giáo,
nhưng đặc biệt quan trọng trong nền văn hóa Semít (người Hípri và đạo
Hồi), đã mặc thêm ba sắc thái khác nữa trong Kitô giáo.
Ở cấp độ
sâu, dưới ảnh hưởng mạnh của một số bản văn Kinh Thánh, hành hương ám
chỉ tình trạng chung của mọi Kitô hữu, những công dân đích thực của
thiên đàng (Pl 3,20), đang mong ngóng và rên siết được sống trên trời
(2Cr 5,2), và do đó phải sống như người lữ hành và lưu đày, chống chọi
với xác thịt (1Pr 2,11). Thánh Augustinô đã nói về toàn thể Hội Thánh
như một người hành hương đang sống trên miền đất của người khác. Công
Đồng Vaticanô II thường sử dụng cùng một hình ảnh hành hương, đôi khi ám
chỉ đến câu truyện Xuất Hành, khi nói về chiều kích cánh chung của Hội
Thánh (Hiến Chế tín lý về Hội Thánh, các số 8, 10, 44, 48). Công
Đồng cũng dùng thành ngữ “Hội Thánh lữ hành” để nói về Dân Thiên Chúa
trong hoàn cảnh dương thế hiện tại (số 50).
Nếp sống
đan tu và các hình thức tu về sau xuất hiện trong Hội Thánh như một hình
ảnh sống động và đầy thách đố nhằm diễn tả những khía cạnh chính yếu
của đời sống Kitô hữu, nhất là khía cạnh “cánh chung”, và do đó thêm cả
chiều kích “thân phận lữ hành” vào số các nét chính yếu trong ơn gọi của
mình.
Trong mục
vụ, các vị mục tử cần lưu ý các tín hữu cả hai nhu cầu: vừa quy hướng
đời sống nội tâm về cuộc thành toàn viên mãn trên trời vừa chu toàn
trách nhiệm tại thế. Các bản văn của Công Đồng Vaticanô II trình bày
rạch ròi cả hai khía cạnh trong mục vụ. Do đó, cần có một nền linh đạo
quân bình cho giáo dân đề cập cả hai chiều kích này. Ngày nay, ý tưởng
về các giai đoạn của đời sống Kitô hữu đã trở nên phổ quát, dựa vào khám
phá của các hình thức tâm lý nhân văn vốn nhấn mạnh những khía cạnh
năng động của sự tăng trưởng và phát triển. Con người luôn ở trạng thái
“trên đường”.
Hành hương
cũng ám chỉ một hành trình nội tâm, qua đó các Kitô hữu tiến tới gặp gỡ
Thiên Chúa trong sự kết hiệp nhiệm mầu. Thánh Gregory Nyssa chọn câu
truyện Xuất Hành như hình ảnh gợi hứng cho hành trình người tín hữu tiến
tới hoàn thiện.
Hành
hương, theo nghĩa thông thường và đúng đắn, nhắm nói đến một cuộc đăng
trình từ nhà mình đến một chốn linh thiêng xa xôi. Người Ai Cập, Hy Lạp
và Rôma đi kính viếng những ngôi đền xa xôi, giống như người Ấn giáo hôm
nay đang làm, nhưng chính trong các xã hội theo văn hóa Semít đó mà
hành hương trở thành một thực hành tôn giáo quan trọng. Tại Israel, có
những cuộc hành hương định kỳ lên “Nhà Đức Chúa” tại Giêrusalem, tương
tự việc lên đền của người ngoại giáo cổ xưa.
Trong Kitô
giáo, hành hương được thực hiện trong hai bối cảnh khác nhau, hoặc đi
kính viếng một đền thánh nổi tiếng (hạn như đền Đức Mẹ hoặc các Thánh),
hoặc đến những nơi đã xảy ra những sự kiện lịch sử hoặc được tin là như
thế. Những chuyến đi đến những nơi đã xảy ra các sự kiện tôn giáo là
hình thức cổ xưa và phổ biến nhất của việc hành hương. Theo Eusebius,
Giám mục Melito Sardi (khoảng năm 160), thì Giám mục Alexander
Cappadocia (khoảng năm 216) đã đi hành hương đến Thánh Địa (Lịch sử Hội Thánh,
4.26.14 và 6.11.2). Tuy nhiên, chính cuộc hành hương của hoàng đế
Constantine và thân mẫu Helena đến Thánh Địa (và cho xây một vương cung
thánh đường tại đây), đã tạo một âm hưởng lớn nhất trong số các Kitô
hữu.
Các cuộc
thập tự chinh và việc thiết lập vương quốc La-tinh tại Palestine một lần
nữa làm cho các chuyến hành hương đến Thánh Địa trở thành cách diễn tả
phổ thông lòng đạo đức và sám hối.
Một hình
thức hành hương phổ biến khác từ thời các Giáo phụ đã có đó là kính
viếng hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô cũng như Thánh Giacôbê tại
Compostela.
Thời gian
gần đây, các chuyến hành hương đến những nơi Đức Mẹ đã bày tỏ quyền năng
chuyển cầu (Lộ Đức và Fatima) đang ngày càng phổ biến, sánh ngang bằng
với các chuyến hành hương đến Thánh Địa.
Canh tân tinh thần hành hương hôm nay
Trong thời
đại di chuyển nhanh chóng như hiện nay, việc đi hành hương ngày càng dễ
dàng hơn so với thời Giáo phụ và Trung Cổ, khi người ta phải rời khỏi
nhà trong hàng tháng và đi bộ hoặc ngồi trên lưng lừa, ngang qua những
vùng đất nguy hiểm. Chính vì vậy, chúng ta hôm nay cần gìn giữ tinh thần
thiết yếu của linh đạo hành hương trong suốt bao thế kỷ qua được sống
mãi. Rời khỏi ngôi nhà của mình hôm nay sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu nó
không bao gồm một ý định muốn bỏ lại sau lưng quá khứ tội lỗi của mình
để lao tới gặp gỡ ân sủng của Thiên Chúa. Bí tích hòa giải tại các đền
thờ (Đền Thánh Phêrô, Lộ Đức, hoặc Fatima) nay lại trở thành một phần
quan trọng của bất kỳ cuộc hành hương nào.
Vào thời
Trung Cổ, các chuyến hành hương đồng nghĩa với một cuộc tĩnh tâm kéo
dài. Việc cắt đứt khỏi các hoạt động bình thường và các tương quan xã
hội là một phương thế giúp người đó dìm mình vào bầu khí thiêng liêng.
Ngày nay, tinh thần đó vẫn cần được duy trì, và do đó, cần có những lúc
thinh lặng cầu nguyện cũng như cử hành chung trong các cuộc hành hương.
Sau cùng, trong quá khứ, các chuyến hành hương luôn là dịp bày tỏ tình
liên đới với người nghèo đang chờ đợi được bố thí tại các đền thờ. Nếu
càng có thêm nhiều chương trình bác ái giúp đỡ người nghèo thì các
chuyến hành hương hôm nay càng được thêm nhiều tinh thần Kitô giáo.
LM. JM. Hà Ngọc Phú CSsR
chuyển dịch từ “Pilgrimage”
trong The Collegeville Pastoral Dictionary of Biblical Theology
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét