CTM lưu lại như một tư liệu vì GX.ĐMHCG đang trong NĂM SỐNG ĐỊNH HƯỚNG TRUYỀN GIÁO
Nhìn
Lại Sứ Mạng Truyền Giáo Trong 50 Năm Qua Và Hướng Ðến
Tương Lai.
Lm.
Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Tháng
5-2009
Lời
Ngỏ
Bạn
đọc thân mến,
Xin
gửi tới bạn đọc tập tài liệu Nhìn lại sứ mạng truyền
giáo trong 50 năm qua và hướng đến tương lai như món quà
nhỏ để gợi ý suy tư nhân dịp Năm Thánh kỷ niệm 50 năm
thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam.
Ðây
chỉ là 3 bài viết về chủ đề truyền giáo được thu gom
lại hơn là một bài tổng hợp có bố cục chặt chẽ. Chúng
tôi bắt đầu từ việc suy tư về hiệu quả truyền giáo tại
Việt Nam trong những năm gần đây để dẫn tới việc xây
dựng một nền văn hoá nhân bản tâm linh mà các bậc tiền
bối ở Việt Nam cũng như ở Hàn Quốc đã thể hiện trong
đời sống của mình. Từ đó giới thiệu hình ảnh người
tông đồ trong thời đại mới chính là người kể lại câu
chuyện Giêsu cho đồng bào cũng như mọi người trong thế
giới hôm nay. Tập tài liệu có phần Phụ lục gồm 28 bảng
biểu với những số liệu thống kê có thể giúp các bạn
tìm thêm nhiều điều khi muốn nghiên cứu về Giáo hội Công
giáo Việt Nam.
Nhân
dịp này, chúng tôi xin hết lòng cám ơn các tổ chức và
cá nhân đã tìm giúp chúng tôi các số liệu và thực
hiện tập tài liệu này. Chúng tôi đặc biệt ghi ơn Nhà
Xuất Bản Our Sunday Visitor, Ðức Ông P.B. Trần Văn Khả.
Chúng
tôi xin trao tặng tập tài liệu này cho Ðức cha Micae Hoàng
Ðức Oanh, Chủ tịch Uỷ ban Loan báo Tin Mừng, để ngài toàn
quyền sử dụng cho công cuộc truyền giáo tại Việt Nam.
Chúng
tôi rất mong ước quý độc giả góp thêm ý kiến để tập
tài liệu có thể hữu ích cho nhiều người.
Xin
Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
Hiệu
Quả Truyền Giáo Ở Việt Nam Trong Những Năm Gần Ðây
-
Nghi Vấn Và Giải Thích
Nhập
Ðề
Việc
truyền giáo hay loan báo Tin Mừng là bản chất của Giáo Hội
Chúa Kitô (x. Công đồng Vatican II, Sắc lệnh Ad Gentes, số 4,
16), dựa trên sứ mạng mà Chúa Cha đã giao cho Con của Ngài
là Ðức Giêsu Kitô: "Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy
cũng sai anh em" (Ga 20,21). Vì vậy, qua mỗi thời kỳ lịch
sử, chúng ta có thể nói rằng Giáo Hội thế nào thì truyền
giáo thế ấy. Truyền giáo thế nào thì kết quả như vậy.
Giáo hội Việt Nam cũng như nhiều giáo hội địa phương khác
không nằm ngoài định luật này.
Nhân
dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam, chúng
ta thử nhìn lại nỗ lực truyền giáo trong những năm qua để
rút ra bài học kinh nghiệm cũng như để hoạch định những
đường hướng truyền giáo cho tương lai.
Muốn
hiểu được sâu hơn hiện trạng sống đạo và truyền đạo
của người tín hữu Việt Nam hiện nay chúng ta phải nhìn lại
cả một bối cảnh truyền giáo rộng lớn của Giáo Hội toàn
cầu và của Giáo hội Việt Nam, vì kết quả của công cuộc
loan báo Tin Mừng này là công lao gieo vãi và vun xới cho
cánh đồng truyền giáo của biết bao thế hệ đi trước. Tuy
nhiên, chúng tôi muốn dành phần nghiên cứu này cho những
loạt bài nghiên cứu sâu hơn.
Trong
phạm vi bài này, chúng tôi chỉ muốn bàn đến hiệu quả
truyền giáo ở Việt Nam trong vài chục năm gần đây với
nghi vấn rằng hiệu quả ấy chưa cao như lòng mong ước và tìm
cách giải đáp nghi vấn này.
Chúng
tôi xin trình bày đề tài này theo 4 phần:
-
Dựa vào đâu để nói việc truyền giáo tại Việt Nam có
hiệu quả chưa cao?
-
Nhận định về tình trạng truyền giáo ở Việt Nam.
-
Ði tìm một vài nguyên nhân dẫn đến tình trạng này.
-
Những gợi ý để đổi mới công cuộc truyền giáo tại
Việt Nam.
1.
Dựa Vào Ðâu Ðể Nói Việc Truyền Giáo Tại Việt Nam Có
Hiệu Quả Chưa Cao?
1.1.
Lời cảm thông
Khi
nói việc truyền giáo tại Việt Nam trong vài chục năm gần
đây đạt hiệu quả chưa cao, chúng tôi có thể đã làm
buồn lòng một số người và dường như chối bỏ công sức
của bao vị tông đồ gồm cả giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo
dân đang làm việc miệt mài trên cánh đồng truyền giáo.
Nhiều
vị đã lập luận rằng: con số mấy chục ngàn người lớn
trở lại Công giáo mỗi năm ở Việt Nam lại không phải là
thành quả đáng khích lệ hay sao? Nhất là khi so sánh với
vài nước ở châu Âu như Pháp, Ðức, Ý mỗi năm chỉ có
một vài ngàn! Số người tín hữu Việt Nam tăng từ 2 triệu
vào năm 1960 đến 5.2 triệu vào năm 2000 và hơn 6 triệu vào
năm 2008 (x. Phụ lục, Thống kê Giáo hội Việt Nam 1933-2008,
Bảng 12, tr.19) lại không phải là kết quả lớn lao sao!?
Những nghi lễ phụng tự trang nghiêm, đông đảo tín hữu tham
dự mỗi Chủ Nhật lại không biểu lộ nét sống đạo mạnh
mẽ của người Công giáo Việt Nam đó sao!? Nhất là khi
nhiều nhà thờ ở các nước Âu Mỹ trống vắng đến lạnh
lùng!
Quả
thực, chúng tôi luôn trân trọng mọi hoạt động tông đồ
và hiểu rằng giá trị thực sự của hoạt động loan báo Tin
Mừng nằm ở sự lượng định hay phán quyết của Thiên
Chúa chứ không phải của con người. Dù cả một đời
không rửa tội được một ai, nhưng nhà truyền giáo vẫn
được đánh giá rất cao vì sự hiện diện tích cực, hiền
lành, nhân ái của người ấy trong một cộng đồng xa lạ, vì
những nỗ lực rao giảng Tin Mừng của người ấy đã thấm
nhập vào xã hội, vào nền văn hoá của dân tộc... và cuối
cùng chỉ có Thiên Chúa mới nhìn thấu hết những gì nhà
truyền giáo ấy thực hiện và thưởng công cho người đó.
1.2.
Dựa vào thực trạng của Giáo Hội qua số liệu thống kê
Nhận
định của chúng tôi dựa vào tình trạng thực tế của Giáo
hội Việt Nam được tổng kết trong các báo cáo hằng năm
của Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi sang Toà Thánh Vatican
hay công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng như
Bản tin Hiệp Thông, Ðài Vatican, Ðài Veritas Asia (Chân lý Á
Châu)...
Chúng
tôi đã thu tích hàng chục ngàn số liệu về Giáo Hội toàn
cầu, Giáo hội các châu, Giáo hội Việt Nam trong mấy chục
năm qua và tổng kết trong 28 bảng thống kê ở phần Phụ lục
cho loạt bài nghiên cứu này về công cuộc Truyền giáo. Vì
thế, chúng tôi mời bạn đọc theo dõi các con số trên các
bảng tổng kết và biểu đồ về tình trạng truyền giáo của
Giáo Hội toàn cầu cũng như Giáo hội Việt Nam để hiểu hơn
về việc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội.
Những
con số này chắc chắn không thể nào nói lên được thực
trạng của công cuộc loan báo Tin Mừng vì đây vừa là một
hoạt động mang tính xã hội tác động lên con người (qua
các chỉ số người lớn trở lại đạo, tham dự các bí tích,
hoạt động xã hội...), vừa mang tính siêu nhiên vì tác động
lên tinh thần con người, lên văn hoá dân tộc và cả nền
văn minh nhân loại mà không ai có thể đo lường và thống
kê được.
Tuy
nhiên, dựa vào những số liệu thống kê, chúng ta có thể
nhận ra một số dấu hiệu về công cuộc loan báo Tin Mừng
của một cộng đồng hay của một giáo hội địa phương. Dấu
hiệu này có giá trị tích cực hay tiêu cực là tuỳ theo
người nhận định nó dựa trên các tiêu chuẩn nào. Chúng
giống như ngọn đèn vàng trong tín hiệu giao thông cảnh báo
cho chúng ta chuẩn bị dừng lại hay cẩn thận trước khi tiến
tới.
1.3.
Nguồn dữ liệu
Các
số liệu này chúng tôi thu thập trong các nguồn chính sau đây:
-
Tổng
cục Thống kê Việt Nam, Niên giám Thống kê, từ năm
1993-2007, NXB Thống Kê, Hà Nội, in và phát hành.
-
Các
sách Niên giám Thống kê từ năm 1997 đến 2007 do Cục Thống
kê TP. Saigòn in và phát hành.
-
Niên
giám Giáo hội Công giáo Việt Nam 2004, 2005 do Văn phòng Tổng
Thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam in và phát hành.
-
Việt
Nam Công giáo Niên giám 1964 do tủ sách Sacerdos thực hiện,
Nhà in Nguyễn Bá Tòng, 12-1963.
-
Catholic
Almanac hằng năm, từ năm 1999 đến 2009, của NXB Our Sunday
Visitors, Huntington, Indiana, Hoa Kỳ, phát hành.
-
Annuario
Pontificio của Văn phòng Thống kê Toà Thánh Vatican.
-
Bản
tin Hiệp Thông của Văn phòng Thư ký - Uỷ ban Văn hoá của
Hội đồng Giám mục Việt Nam, từ năm 2000-2009.
-
Và
nhiều nguồn truyền thông khác.
1.4.
Vài điểm cần lưu ý về số liệu
Nhiều
số liệu về Giáo hội Việt Nam cần được điều chỉnh vì có
sự khác biệt hay sai sót do các nguyên nhân sau: do hoàn cảnh
chiến tranh, do ngăn cách hai miền Nam Bắc suốt từ năm
1954-1975; hoặc ít có tổ chức trong nước quan tâm đến các
số liệu về tôn giáo của Giáo hội Công giáo Việt Nam (từ
năm 1975-1990), trừ thống kê của Nhà Nước trong cuộc Tổng
Ðiều tra năm 1999; do ranh giới hành chính và tôn giáo không
trùng khớp nhau (nhiều giáo phận bị chồng chéo lên nhau, có
giáo phận nằm trong 3-4 tỉnh, hoặc có khi một tỉnh thuộc về
2-3 giáo phận khác nhau nên khi làm thống kê nhiều lúc diện
tích của Giáo hội Việt Nam lại lớn hơn vài ngàn kilômet
vuông so với diện tích nước Việt Nam, hoặc số dân mà các
giám mục quản lý cũng tăng hơn so với dân số Việt Nam
chừng 3-4 triệu); do những biến động xã hội như cuộc di cư
từ Bắc vào Nam năm 1954 (vì thế số liệu ở các giáo phận
bị xáo trộn nhiều); do di tản từ Việt Nam sang nhiều nước
khác từ năm 1975-1985; do di dân vì tình hình kinh tế xã hội
khó khăn từ năm 1990-2008.
Chúng
tôi đã trình bày những lý do đó trong cuốn Người Mục
tử Cộng đồng Hướng về Tương lai. Sách này trình bày rất
nhiều những số liệu và chứng minh nhiều số liệu không ổn
định như có giáo phận ở miền Bắc chỉ tăng có 2 giáo dân
trong suốt 13 năm! (x. Nguyễn Ngọc Sơn, Người Mục tử Cộng
đồng Hướng về Tương lai, NXB TP.Saigòn, 1996, tr. 51-59).
Vì
thế, những số liệu về diện tích, dân số Việt Nam đăng
trong bảng tổng kết hằng năm của Hội Ðồng Giám Mục Việt
Nam đã được chúng
tôi thay thế bằng số liệu của Cục Thống kê Nhà Nước cho
chính xác hơn.
Những
số liệu về Giáo hội Việt Nam cũng như của các giáo phận
ở Việt Nam được báo cáo về Toà Thánh Vatican và được
công bố khá chậm, trung bình phải 2-3 năm sau. Chúng tôi đã
có dịp so sánh các số liệu với nhau. Những số liệu này
mất 2 năm mới xuất hiện trên Annuario Pontificio của Toà
Thánh Vatican rồi sau đó mất thêm 1 năm mới được trích
lại trên cuốn Catholic Almanac. Thí dụ: Dân số toàn cầu hiện
nay đã vượt quá 6.750 tỷ nhưng trong Catholic Almanac 2009 mới
chỉ có 6,542,824,000 (tr. 335), và số tín hữu Việt Nam ở đây
là 5,990,000 (tr. 333). Ðó là các số liệu Giáo hội Việt Nam
báo cáo về Toà Thánh vào năm 2006. Vì thế, khi xem các số
liệu của Giáo Hội toàn cầu ta nên hiểu đó là số liệu
của 2-3 năm về trước. Thí dụ: Thống kê năm 1963 là số
liệu của năm 1960. Còn các số liệu của Giáo hội Việt Nam
trong các bảng từ số 13-27 được tính đúng năm theo bảng
thống kê.
2.
Nhận Ðịnh Về Tình Trạng Truyền Giáo Ở Việt Nam
2.1.
Tình trạng truyền giáo của Giáo Hội toàn cầu
Trước
khi tìm hiểu tình trạng truyền giáo ở Việt Nam, chúng tôi
muốn nói sơ qua về tình trạng truyền giáo của Giáo Hội
toàn cầu. Ở đây chúng tôi chỉ đưa ra vài con số để làm
bối cảnh cho công cuộc loan báo Tin Mừng ở Việt Nam.
Trong
mấy chục năm qua, chúng tôi thấy số người Công giáo tăng
từ 558,220,654 người (x. Việt Nam Công giáo Niên giám 1964, tr.
139) trên tổng số 3,068,275,975 vào năm 1960 lên đến
1,130,750,000 người trên tổng số 6,542,824,000 người của dân
số thế giới vào năm 2006 (x. Phụ lục, Thống kê Giáo hội
Toàn cầu từ 1962-2009, Bảng 1, tr. 1).
Số
tăng này phần lớn là tăng tự nhiên theo số trẻ sinh ra.
Ngoài ra, mỗi năm có khoảng từ 1-2 triệu người lớn
được rửa tội. Tuy nhiên, nếu tính theo tỷ lệ giữa số
dân Công giáo và dân số thế giới thì tỷ lệ này giảm
từ 18.2% vào năm 1960 còn 17.99% vào năm 1975, và còn 17.2%
vào năm 2006 (x. Phụ lục, Thống kê Giáo hội Toàn cầu từ
1962-2009, Bảng 1, tr. 1).
Nếu
so sánh với dân số Hồi giáo vào năm 1960 có 433,840,000
người trên tổng số 3,068,275,975, chiếm 14.13% dân số thế
giới (x. Việt Nam Công giáo Niên giám 1964, tr. 140) thì vào
năm 2006 đã vượt qua Công giáo và chiếm 19.2% dân số. Có
người giải thích rằng người Hồi giáo sinh nhiều con nên
dân số tăng nhanh.
Số
người lớn được rửa tội trung bình cả thế giới là 2.5
triệu người/năm, trong khoảng 10 năm gần đây, trong khi Giáo
Hội toàn cầu có hơn 1,000 giám mục, 400,000 linh mục triều và
dòng, hơn 800,000 tu sĩ nam nữ, 200,000 tông đồ giáo dân, gần
3 triệu giáo lý viên (x. Thống kê Giáo hội Toàn cầu từ
1962-2009, Bảng 1, tr. 1). Như thế, trung bình cứ 2 người Công
giáo ưu tuyển mới cuốn hút được 1 người theo đạo/năm.
Nói
như vậy để chúng ta thấy Giáo Hội toàn cầu trong suốt 50
năm qua không tăng thêm mà còn giảm bớt 1% so với dân số
toàn thế giới. Ðiều này chứng tỏ việc truyền giáo chưa
có hiệu quả về mặt số lượng. Còn chất lượng sống
đạo có tốt hơn không lại là chuyện khác. Chúng ta sẽ tìm
hiểu và phân tích sâu hơn về tình trạng này trong một bài
khác.
2.2.
Tình trạng truyền giáo của Giáo hội Việt Nam
Về
tình trạng truyền giáo của Giáo hội Việt Nam, chúng tôi xin
tóm tắt qua các số liệu sau đây:
*
Từ năm 1960-2008, tỷ lệ dân số Công giáo Việt Nam so với
dân số cả nước không tăng lên được 1%.
-
Năm 1960: tổng số dân Việt Nam là 30,172,000 người. Công
giáo là 2,094,540, chiếm tỷ lệ khoảng 6.93%.
-
Năm 2000: tổng số dân Việt Nam là 77,635,400 người. Công
giáo là 5,234,303, chiếm tỷ lệ 6.7% (x. Phụ lục, Thống kê
Giáo hội Việt Nam 1933-2008, Bảng 12, tr. 19).
-
Năm 2008: tổng số dân Việt Nam là 86,160,000 người. Công
giáo là 6,187,486, chiếm tỷ lệ 7.18% (x. Phụ lục, Thống kê
Giáo hội Việt Nam 1933-2008, Bảng 12, tr. 19).
Nếu
so sánh tỷ lệ dân số Công giáo của các năm 1933 (tỷ lệ
7.2%), năm 1939 (tỷ lệ 7.5%) với tỷ lệ của các năm gần
đây ta sẽ thấy tỷ lệ này đang có nguy cơ giảm (x. Phụ lục,
Thống kê Giáo hội Việt Nam 1933-2008, Bảng 12, tr. 19).
*
Trong vòng 50 năm qua, số dân Công giáo Việt Nam tăng từ 2
triệu vào năm 1960 lên đến hơn 6 triệu vào năm 2008. Như
thế là tăng gấp 3 lần. Nhưng số tăng này hầu như là kết
quả tương ứng với số sinh tự nhiên nên chưa thể nói
được là truyền giáo có kết quả tốt đẹp. Nếu ta so sánh
số trẻ sơ sinh được Rửa Tội hằng năm với số dân Công
giáo tăng hằng năm sẽ thấy hai số đó gần như bằng nhau (x.
Phụ lục, Tổng kết Nhân sự các Giáo phận từ 2000-2008,
Bảng 22, tr. 44).
Tổng
số trẻ được Rửa Tội từ 2001-2008 là 873.486 (x. Phụ lục,
Tổng kết Tình trạng Bí tích từ năm 2000-2008, Bảng 24, tr. 46).
Trong khi số tín hữu tăng từ năm 2001-2008 là: 6,187,486 -
5,324,492 = 862,994 người. Nếu so sánh 2 số đó ta thấy số tín
hữu tăng còn thấp hơn số trẻ được Rửa Tội đến 10,492
người (873,486 (862,994). Vậy thì số người lớn và số trẻ
em từ 1-7 tuổi được Rửa Tội biến đi đâu?
*
Số người lớn trở lại đạo từ năm 2001-2008 là 283,620
và số trẻ từ 1-7 tuổi được Rửa Tội là 63,256 (x. Phụ
lục, Tổng kết Tình trạng Bí tích từ năm 2000-2008, Bảng 24,
tr. 46). Nếu tính số tử của người Công giáo là 8% như số
trung bình của toàn quốc tương đương với số trẻ được
rửa tội từ 1-7 tuổi trong 8 năm qua thì chúng ta tự hỏi con
số người lớn trở lại đạo 283,620 biến đi đâu mà không
tìm được lời giải thích. Không lẽ có cả hàng trăm ngàn
người bỏ đạo từ năm 2001-2008?!
*
Trong vòng 8 năm gần đây (2001-2008), số người trở lại
đạo trung bình mỗi năm khoảng 35,000 người (283,620 : 8 năm =
35.453 (x. Bảng 24, tr. 46). Nếu quan sát các lớp học giáo lý
dự tòng, ta thấy có tới 80-90% người muốn theo đạo là
để lập gia đình với người có đạo. Vậy động lực theo
đạo thật sự của họ là gì? Họ có thể sống đạo và
giữ đạo lâu dài không? Cần phải giúp họ nuôi dưỡng
đức tin thế nào để tránh được câu mỉa mai sau đây:
Sấp
mình lạy Chúa Ba Ngôi
Tôi
lấy được vợ, tôi thôi nhà thờ!
*
Một nhận xét khác là số người trở lại đạo không
tương xứng với số nhân sự lo việc truyền giáo. Nếu ta
tổng cộng số linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý
viên trong cả nước hay trong một giáo phận, ta sẽ thấy kết
quả này là khá nhỏ bé. Vậy thì ai là người loan báo Tin
Mừng? Các linh mục, tu sĩ có bao giờ suy nghĩ về hiệu quả
truyền giáo và thay đổi cách thức truyền giáo không? Giáo
dân có tích cực tham gia vào công cuộc này không?
Thí
dụ: năm 2008, Giáo hội Việt Nam có 3,541 linh mục, 1,480 chủng
sinh, 2,125 chủng sinh dự bị, 1,914 tu sĩ nam, 13,838 tu sĩ nữ,
56,698 giáo lý viên (x. Bảng 21, tr. 41) vậy mà chỉ thu hút
được 41,444 người (x. Bảng 24, tr. 46). Ðây là số cao nhất
trong mấy năm gần đây. Trung bình cứ 2 người tín hữu ưu
tuyển mới thu hút được 1 người theo đạo. Ðó là chúng
ta chưa nói đến cả triệu đoàn viên các hội đoàn Công
giáo Tiến hành.
*
Nhiều giáo phận có số người lớn trở lại đạo rất
thấp:
Thí
dụ năm 2008:
-
Cả giáo phận Huế chỉ có 106 người lớn trở lại đạo,
trong khi tổng số giáo dân là 68,240 người, 131 linh mục, 44
chủng sinh, 86 tu sĩ nam, 916 tu sĩ nữ, 744 giáo lý viên (x. Phụ
lục, Bảng Tổng kết các Giáo phận năm 2008, Bảng 21, tr.
41-42).
-
Giáo phận Bùi Chu có 735 người lớn trở lại đạo, trong khi
có 391,837 tín hữu, 159 linh mục, 54 chủng sinh, 609 tu sĩ nữ,
4,053 giáo lý viên (x. Phụ lục, Bảng Tổng kết các Giáo
phận năm 2008, Bảng 21, tr. 41-42).
-
Tổng Giáo phận Saigòn có 662,148 tín hữu, 604 linh mục triều
và dòng, 87 chủng sinh, 317 tu sinh, 959 tu sĩ nam, 3,103 tu sĩ nữ (chưa
kể 567 tu sĩ thuộc tu hội), 5,528 giáo lý viên. Số người
lớn được Rửa Tội cả năm là 7,345 người (x. Phụ lục,
Bảng Tổng kết các Giáo phận năm 2008, Bảng 21, tr. 41-42),
đông nhất trong 26 giáo phận.
2.3.
So sánh hoạt động truyền giáo của vài giáo hội khác
Nếu
nhìn vào Giáo hội Tin Lành ở Việt Nam, năm 1999: số tín
hữu là 400,000 người (x. Thống kê Quốc gia 1999, tr.133). Năm
2008: con số này đã lên tới 1,500,000 người. Như thế, số
tín hữu tăng gần 4 lần trong vòng 10 năm. Ðó mới chỉ là
vài hệ phái chính, chưa kể các hệ phái khác như Pentecostist
(Ngũ Tuần), Chứng nhân Yavê...
Nói
đến thành công này, một số người giải thích rằng tại vì
anh em Tin Lành có nhiều phương tiện như tiền bạc, thuốc men,
phân phối sách Kinh Thánh, dạy Anh ngữ miễn phí... nên có
thể giúp đỡ nhiều người và thu hút người khác theo
đạo. Chúng ta không biết có phải đó là lý do chính yếu
không hay còn những hoạt động tích cực nào khác cần phải
tìm hiểu và học hỏi lẫn nhau? Nếu có dịp đến hớt tóc
ở góc đường Kỳ Ðồng gần Nhà thờ Ðức Mẹ Hằng Cứu
Giúp, TP. Saigòn, chúng ta sẽ thấy những người thợ vừa hớt
tóc vừa giảng đạo, dù rằng chúng ta không muốn nghe nhưng
họ vẫn cứ nói. Ở Giáo xứ Chợ Ðũi, Q.1, TP. Saigòn, nhóm
Pentecostist mượn hội trường của giáo xứ để mỗi tuần
tổ chức buổi họp mặt của nhóm. Nhìn những người tham gia
nhóm hát với tất cả niềm hăng say ta mới thấy sức cuốn
hút của những ai được Chúa Thánh Thần tác động.
Nếu
nhìn vào Giáo hội Hàn Quốc, vào năm 1949, người Công giáo
xuất phát cùng với anh em Tin Lành ở mức 1% dân số, đến
năm 2006, tổng kết của Hàn Quốc: Công giáo là 9.65% và anh
em Tin Lành là 26% (x. Phụ lục, Thống kê Giáo hội Hàn Quốc
1999-2009, Bảng 28, tr. 50). Chúng ta cần học bài học truyền
giáo của anh em Hàn Quốc. Khi sang làm việc ở Việt Nam, nhóm
Công giáo đã gặp gỡ nhau tại Giáo xứ Vườn Xoài. Họ lo
lắng và tích cực truyền giáo không chỉ cho cộng đồng của
họ mà còn truyền giáo cho những người Việt Nam, truyền
giáo cho những thương gia Hàn Quốc đã sang đây làm việc.
Chương trình của Giáo hội Hàn Quốc cách đây nhiều năm là
mỗi gia đình Công giáo nhận đỡ đầu cho một gia đình không
Công giáo, và họ quyết tâm là trong 5 năm phải tăng gấp
đôi số người tín hữu. Họ đã hoàn thành điều này chỉ
trong vòng 3 năm! Giáo hội Việt Nam sẽ có chương trình truyền
giáo như thế không?
Do
đó, chúng ta cần phân tích những nguyên nhân gây nên
thiếu hiệu quả trong công cuộc truyền giáo để thấy cần thay
đổi thế nào cho công cuộc truyền giáo được kết quả.
3.
Một Vài Nguyên Nhân Dẫn Ðến Tình Trạng Thiếu Hiệu Quả
Tình
trạng thực tế về truyền giáo đòi hỏi chúng ta phải quan
tâm và đặt vấn đề cho việc truyền giáo của mình: Tại sao
Giáo hội Việt Nam với bao nhiêu dòng tu, bao nhiêu hoạt động
tích cực trong xã hội, bao nhiêu lễ nghi rất hoành tráng (thí
dụ như Ðại hội Ðức Mẹ La Vang 2008 với khoảng 500,000-600,000
người tham dự) mà vẫn không cuốn hút được người ta
theo đạo? Nếu tình trạng kém hiệu quả chỉ xảy ra trong 1-2
năm thì chúng ta còn cho là ngẫu nhiên, nhưng kéo dài đến
50 năm thì đó là vấn đề đáng ta tìm hiểu và phân tích.
Ðã
có rất nhiều những hội nghị, hội thảo thuộc đủ các cấp,
các miền, từ Giáo hội trung ương đến Giáo hội địa phương,
được tổ chức để tìm hiểu và nghiên cứu sâu xa vấn
đề truyền giáo của Giáo hội Công giáo nhưng kết quả chưa
thu được là bao. Nhiều tài liệu hướng dẫn cho các thành
phần dân Chúa học hỏi về công cuộc truyền giáo đã
được soạn thảo và phân phối cho các linh mục, tu sĩ và
giáo dân ưu tuyển nhưng hình như chúng vẫn chưa tạo nên
những kết quả thiết thực.
Chúng
tôi nghĩ rằng những nghiên cứu và khám phá từ các
giới chuyên môn trong Giáo Hội đã khá phong phú để giúp
chúng ta tìm ra những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng
trên. Chúng tôi xin tóm tắt vào mấy điểm sau đây:
3.1.
Chưa có một nhận thức đầy đủ về việc loan báo Tin Mừng
Nhận
thức này được khoa Truyền giáo học cung cấp cho ta để
hiểu rằng người loan báo (chủ thể) cần những điều kiện
nào, người được loan báo (đối tượng) cần được quan
tâm như thế nào và Tin Mừng (nội dung) được loan báo là
loại tin gì và loan báo ra sao (phương thức) (x. Felippe Gomez, S.J.,
Truyền giáo học, Antôn & Ðuốc Sáng xuất bản, 2003).
Dù
đã được hướng dẫn bằng những nghiên cứu sâu xa của
Công đồng Vatican II với các Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng
Muôn dân) năm 1965, Gaudium et Spes (Vui mừng và Hy vọng) năm
1965, Sắc lệnh Ad Gentes (Ðến với Muôn dân) năm 1965,
Apostolicam Actuositatem (Hoạt động Tông đồ) năm 1965, cũng như
nhiều văn kiện của các Ðức Thánh Cha, đặc biệt là ÐTC
Phaolô VI với Thông điệp Evangelii Nuntiandi (Loan báo Tin Mừng)
năm 1975, và ÐTC Gioan Phaolô II với Thông điệp Redemptoris
Missio (Sứ vụ Ðấng Cứu Thế) năm 1990, nhất là Thông điệp
Hậu Thượng Hội đồng Ecclesia in Asia (Giáo Hội tại châu Á)
năm 1999, nhiều tín hữu Việt Nam hầu như không được học
hỏi chúng nên chưa có một nhận thức đầy đủ về việc
loan báo Tin Mừng. Ðến ngày Khánh nhật Truyền giáo (tháng 10
hằng năm), nhiều người chỉ nhắc đi nhắc lại điệp khúc
"Truyền giáo là bản chất của Hội Thánh" chứ không
biết thể hiện bản chất ấy thành những hành động cụ thể
như thế nào trong đời sống.
Nhiều
tín hữu còn cho rằng loan báo Tin Mừng là công việc chuyên
môn của linh mục, tu sĩ hay một số giáo dân chuyên nghiệp
đã được học về Thần học, chứ không phải là bổn phận
của chính mình. Nhiều vị có trách nhiệm lại cho rằng truyền
giáo là mở những lớp giáo lý tân tòng để dạy cho
người muốn theo đạo những bài học soạn sẵn hay bắt họ
học thuộc lòng một số kinh. Nhiều người tích cực hơn thì
mua các sách Kinh Thánh hay Tân Ước phát tặng cho anh em lương
dân hay tặng quà cho họ trong những dịp lễ Tết.
Uỷ
ban Loan báo Tin Mừng của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam hay của các giáo phận trong
mấy chục năm qua dường như vẫn còn để ngỏ mảnh đất
này cho các nhà thần học tự khám phá, các tín hữu riêng
lẻ hay các dòng tu tự dấn thân hoạt động hơn là tổ
chức, định hướng và liên kết các hoạt động truyền giáo
trong Giáo hội Việt Nam. Người ta đưa ra gương mẫu của thánh
Phanxicô Xaviê, thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu hay nhiều gương
mẫu khác mà quên đi Ðức Giêsu Kitô mới là người mẫu
loan báo Tin Mừng tuyệt hảo nhất cho mọi thời đại. Người
loan báo tin vui Nước Trời với niềm phấn khởi, xác tín,
và quyền năng của Ngôi Lời Thiên Chúa thể hiện nơi chính
bản thân Người: "Ðức Giêsu đi khắp các thành, các
làng rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa lành mọi bệnh
hoạn, tật nguyền" (x. Mt 9,35; 4,23). Người đúng là sứ
giả của Lời để Thiên Chúa trực tiếp dạy bảo chúng ta,
để Thiên Chúa nói với chúng ta qua Con của Ngài và đưa
mọi người vào cuộc hiệp thông toàn diện với Thiên Chúa
(x. Hội đồng Chủ tịch Năm Thánh 2000, Ðức Giêsu là Ðấng
Cứu Ðộ Duy nhất, Rôma 1999, bản dịch, tr. 24).
3.2.
Thiếu nền tảng Kitô học vững chắc
Ðể
có nhận thức đầy đủ về công trình loan báo Tin Mừng
cứu độ của Ðức Giêsu Kitô, Giáo Hội cần những nhà
thần học trình bày một học thuyết thật rõ ràng, trong sáng,
mạch lạc về Ðức Giêsu Kitô. Học thuyết này sẽ giúp
người tín hữu thống nhất về mặt tư tưởng cũng như hành
động với Ðức Giêsu và giới thiệu Người cho người
khác. Các Nghị phụ của Thượng Hội đồng Giám mục châu Á
đã xin Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đề nghị các nhà thần
học soạn một giáo trình cơ bản về Kitô học vừa trung
thành với Thánh Kinh, Thánh Truyền và Giáo huấn của Hội
Thánh, vừa giải đáp thoả đáng các vấn đề về Ðức
Kitô do các khoa học đặt ra trong tinh thần đại kết và đối
thoại liên tôn. Dù được khuyến khích rất nhiều nhưng các
nhà thần học chưa dám viết giáo trình này vì trong lịch sử
những vấn đề Kitô học là nguồn gây tranh cãi và chia rẽ
trong Giáo Hội suốt những thế kỷ đầu. Ða số chỉ dừng
lại ở những điểm cơ bản của Công đồng Nicea (năm 325)
và Calcedonia (năm 451).
Ðể
chuẩn bị cho nền tảng Kitô học mới mẻ này, ÐTC Gioan Phaolô
II luôn luôn trình bày về Ðức Kitô trong các văn kiện và
lời rao giảng của ngài; còn ÐTC Bênêđictô XVI đã viết
cuốn Ðức Giêsu Nazareth, năm 2007 (x. Joseph Ratzinger, Jesus of
Nazareth, NXB Vatican) ngay khi mới lên ngôi Giáo hoàng. Thực ra,
khi còn là Tổng trưởng Bộ Giáo lý Ðức tin, ngài đã
trình bày một số điểm tranh luận trong Kitô học qua cuốn
Giáo lý Hội Thánh Công giáo (năm 1992) và bản Toát yếu
Giáo lý của Hội Thánh Công giáo (năm 2005).
Nếu
người ta nắm vững nguyên tắc Kitô học và giảng dạy tinh
thần đối thoại liên tôn thì rất nhiều người tín hữu sẽ
vượt qua mặc cảm sợ hãi và tội lỗi khi phải tham dự
những lễ nghi với những anh em không cùng tôn giáo, và
những anh em lương dân chắc chắn sẽ có nhiều thiện cảm khi
hiểu ra những thái độ ứng xử thân thiện và tôn trọng
của người Công giáo. Ví dụ ở Việt Nam vẫn còn nhiều
căng thẳng về văn hoá và tôn giáo: nhiều người vẫn
hiểu rằng vào đạo thì không được vào chùa lạy Phật,
không được làm mâm cúng, không được ăn đồ đã cúng
Phật vì sợ mắc tội!
3.3.
Thực trạng sống đạo chưa đáp ứng với yêu cầu của Tin
Mừng
Nhìn
vào đời sống người Kitô hữu hiện nay, chúng ta thấy có
một khoảng cách khá lớn giữa điều người ta hiểu và
điều người ta sống. Ðời sống đạo tập trung vào các nghi
lễ, các hoạt động bên ngoài hơn là vào niềm xác tín và
cảm nghiệm bên trong.
Ở
Việt Nam, hơn 60% dân số dưới tuổi 30. Những người trẻ
đang có xu hướng đi tìm biết sự thật ẩn chứa trong thiên
nhiên, trong con người cũng như xã hội qua việc say mê học
hỏi khoa học kỹ thuật. Nhưng nhiều người chúng ta lại quá
quan tâm đến thần học, ít chú trọng đến các khoa học, và
chưa trình bày cho người trẻ hiểu rằng Ðức Giêsu chính là
sự thật toàn diện và vĩnh cửu (x. ÐTC Gioan Phaolô II, Giáo
Hội tại châu Á, số 10) và Người sẵn sàng khai mở tâm
trí để giúp con người hiểu biết những sự thật đó.
Hơn
nữa, những người trẻ này cũng đang có xu hướng chạy
theo cái đẹp qua sự say mê cuồng nhiệt đối với các thần
tượng như cầu thủ, diễn viên, người mẫu và ham chuộng
thời trang, âm nhạc, thể thao như biểu hiện của cái đẹp.
Trong khi đó chúng ta hô hào họ hãy xoá bỏ thần tượng,
sống đơn giản, nghèo khó, nhưng lại chưa giới thiệu cho họ
một Thiên Chúa là chủ của cái đẹp và chưa giúp họ hiểu
tinh thần nghèo khó của Ðức Giêsu thật sự là gì.
Ðức
Giêsu dạy: "Con người làm chủ ngày Sabbat" (Mt 12,8)
như mời gọi chúng ta chú ý đến con người hơn những luật
lệ, hình thức đạo đức bên ngoài. Thế nhưng, những ngôi
nhà thờ đồ sộ, những tu viện to lớn bên cạnh các căn
nhà tồn tàn, rách nát như trở thành những pháo đài
kiên cố khiến nhiều người ngại ngùng không dám tìm gặp
Ðức Kitô ở đó. Nhìn những cuộc hành hương với vài
trăm ngàn người tham dự, mà người ở xa tiêu hàng triệu
đồng, người ở gần tốn vài chục ngàn cho việc đi lại
ăn ở, và nếu tính tổng cộng có thể lên tới hàng chục,
hàng trăm tỷ đồng, trong khi hàng trăm ngàn học sinh vẫn
còn thiếu lớp, cả triệu (5,5) người tàn tật còn thiếu
điều kiện sinh sống, hàng trăm ngàn người nghèo thất
nghiệp đang phải chật vật kiếm ăn, thì có lẽ chúng ta phải
nhìn lại cách thức bày tỏ lòng đạo của mình đối với
Chúa và Ðức Mẹ cho âm thầm, khiêm tốn hơn chăng?
Nếu
chúng ta chỉ rao giảng Lời Chúa như một người tiếp thị,
quảng cáo Tin Mừng mà chưa phải là chứng nhân thực sự
của Tin Mừng Ðức Kitô với những hành động cụ thể trong
đời sống thì việc truyền giáo vẫn khó đạt kết quả như
lòng mong ước.
4.
Vài Gợi Ý Ðể Ðổi Mới Công Cuộc Truyền Giáo Tại Việt
Nam
Ðức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đã mời gọi chúng ta xuất phát lại
từ Ðức Giêsu Kitô và sống với Người thì mới có thể
chia sẻ kinh nghiệm cho người khác trong đời sống thường
ngày. Ðây là gợi ý để chúng ta suy nghĩ về công việc
truyền giáo của mình. Tuy nhiên, muốn xuất phát lại từ
Ðức Kitô trước hết chúng ta cần trở lại với Người
(x. Thông điệp Giáo Hội tại châu Á, số 10).
4.1.
Trở lại với Ðức Kitô để cảm nghiệm được nội dung
loan báo Tin Mừng là chính Ðức Kitô
Trở
lại với Ðức Kitô là chúng ta tìm lại cảm nghiệm sống
động của các Tông đồ về Ðức Giêsu Phục Sinh như là
tâm điểm cho mọi hoạt động và suy tư của mình. Ðức Giêsu
không phải là một mớ thông tin mà ta đã thu thập được
trong những giờ học giáo lý hay qua những bài giảng, bài
kinh. Ðức Giêsu cũng chẳng phải là những câu Tin Mừng
chúng ta học thuộc lòng và nhắc lại cho người khác mà
không cảm nghiệm được ý nghĩa thâm sâu và sức cứu
độ mãnh liệt trong từng lời nói của Người. Người cũng
chẳng phải là những cuốn sách Thánh Kinh ta trân trọng trao
tặng anh em lương dân và khuyến khích họ đọc Lời Chúa trong
khi chính ta cũng cảm thấy khó khăn trước những bản văn
cần giải thích của Thánh Kinh.
Tin
Mừng hay Lời Chúa phải là một con người đang sống giữa
chúng ta và sống trong ta để ta có mối tương quan mật thiết
với Người. Ðể hiểu trọn vẹn về một con người đang
sống, ta không phải chỉ cần thông tin mà còn phải gặp gỡ,
tiếp xúc, yêu thương và nếu cần, có thể hoà nhập thành
một "để tôi sống nhưng không còn phải là tôi mà là
Ðức Kitô sống trong tôi" (x. Gl 2,20). Có như thế chúng ta
mới có thể chia sẻ Ðức Giêsu cho những người khác,
mới "kể chuyện về Ðức Giêsu" như đề nghị của
Ðại hội Truyền giáo châu Á được tổ chức tại Chiang Mai,
Thái Lan, từ ngày 18 đến 22-10-2006. Nếu nội dung loan báo
thật sự là Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô thì chính Người sẽ
"củng cố lời rao giảng bằng những phép lạ kèm theo"
(Mc 16,20) để thể hiện ơn cứu độ và giải thoát con người.
4.2.
Trở lại với Ðức Kitô để khám phá ra giá trị cao cả
của người nghe Tin Mừng
Trở
lại với Ðức Giêsu Kitô để thấy rằng qua việc Ngôi Lời
Thiên Chúa trở thành con người (x. Ga 1,14), thì con người
trở thành con đường của Thiên Chúa và cũng là con
đường của Giáo Hội (x. UBBAXH/HÐGMVN, Tóm lược Học thuyết
Xã hội của Giáo hội Công giáo, NXB Tôn Giáo, Hà Nội, 2007,
số 62). Lúc đó nhà truyền giáo mới tập trung mọi cố gắng
lo cho biết bao con người trong vùng đất Á châu và Việt Nam,
nhất là những người nghèo khổ, yếu kém, bị bóc lột và
bị gạt ra ngoài lề xã hội, như Ðức Giêsu đã tất bật
từ sáng sớm đến tối mịt để rao giảng Tin Mừng, chữa
lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ cho con người. Tất cả những
công việc này đều là hoạt động truyền giáo, đều nhằm
xây dựng một nền nhân bản toàn diện và liên đới mà
Công đồng Vatican II đã khởi xướng vào năm 1965 và
được khai triển trong Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công
giáo từ năm 2004. Các tổ chức của Giáo Hội được mời
gọi để khai triển và thể hiện nền nhân bản này.
Trở
lại với Ðức Kitô ta sẽ khám phá ra mầu nhiệm Nhập Thể
luôn gắn liền với mầu nhiệm Nhập Thế để can đảm dấn
thân vào xã hội trần thế hôm nay. Ngôi Lời Thiên Chúa
đã trở thành Ðức Giêsu Nazareth, đã đi vào dòng lịch
sử con người, đã đón nhận những yếu tố của vũ trụ
vật chất qua thân xác của mình. Người đã đưa tính tuyệt
đối, vĩnh hằng, thánh thiện, vô biên của Thiên Chúa vào
trong cái tương đối, nhất thời, tội luỵ, hữu hạn của con
người và vũ trụ để từ nay tất cả đều được biến
đổi và thần hoá. Từ đó, mỗi con người đều có giá
trị vô song dù họ già nua, tàn tật, xấu xa đến đâu chăng
nữa. Từ đó, mỗi công việc đều có giá trị vĩnh hằng,
đem lại ơn cứu độ dù nó chỉ kéo dài một vài giây như
nụ cười, dù có vẻ tầm thường như các chậu quần áo ta
giặt mỗi ngày, như làm vệ sinh, rửa mặt, đánh răng mỗi
bữa. Truyền giáo bây giờ chính là kết hợp với Ðức
Kitô trong đời sống thường ngày để dâng lên Người
những công việc tưởng như nhỏ bé vô nghĩa nhưng thực ra
có giá trị vô song nếu ta làm vì yêu mến Ðức Kitô để
cứu độ anh em mình.
Sống
trong một châu lục với nhiều dân tộc có các nền văn hoá
và tôn giáo khác nhau, ta cần trở lại với Ðức Kitô để
thấy Người không phải là của riêng Kitô giáo nhưng là
Ðấng Cứu Ðộ của toàn thể nhân loại và vũ trụ. Cha
Trên Trời muốn cứu độ tất cả con cái mình nên đã ban
Người Con Một cho chúng ta, và Chúa Thánh Thần vẫn đang
chuẩn bị cho việc Ðức Kitô đến với mọi người cũng như
không ngừng nói trong các tôn giáo (x. CÐ. Vat. II, Tuyên ngôn
Nostra aetate, số 1; Giáo Hội tại châu Á, số 15,18). Việc
truyền giáo là một cố gắng liên tục để hội nhập văn
hoá và đối thoại liên tôn của từng người tín hữu
cũng như từng tổ chức của Giáo Hội. Trong hoạt hoạt động
này, chúng ta cần học lại thái độ khoan dung của Ðức Kitô
(x. Mc 9,38-39) để biết phân biệt những hình thức mê tín dị
đoan đồng thời biết đánh giá đúng các nghi thức phụng
vụ, lời kinh và cách sống của những người không cùng
tôn giáo với mình, thậm chí ngay trong việc trừ ma diệt quỷ
của họ (x. Mc 9,39-40).
4.3.
Trở lại với Ðức Giêsu Kitô để nhà truyền giáo trở
thành hiện thân sống động của Người
Sứ
mạng truyền giáo bắt nguồn từ chính sứ mạng của Ðức
Kitô vì chính Người là Ngôi Lời hằng hữu đã được
Chúa Cha sai đến trần gian (x. Lc 4,18) để mạc khải tình thương
cứu độ của Chúa Cha và tất cả những ai tin Người sẽ
được sống đời đời (x. Ga 3, 16). Tin Mừng cứu độ ấy
được Ðức Kitô loan báo bằng toàn thể con người mình,
bằng lời nói cũng như hành động. Chính Người sai chúng ta
đi loan báo Tin Mừng: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên
hạ loan báo Tin Mừng cho muôn loài thụ tạo" (Mc 16,15) và
ban muôn ân sủng của Thánh Thần để giúp chúng ta hoàn
thành sứ mạng ấy.
Vì
thế, xét về bản thân, nhà truyền giáo cần 4 điểm sau đây:
xác tín về sứ mạng cứu độ Chúa Cha trao cho mình, hoà
nhập thành một với Ðức Kitô, gắn bó mật thiết với
Chúa Thánh Thần và hiệp thông sâu xa với Giáo Hội. Khi có
đủ 4 yếu tố này, bản thân nhà truyền giáo trở thành
hình ảnh sống động của Chúa Ba Ngôi, trở thành hiện thân
của Chúa Giêsu Kitô ở trần gian và trở nên Tin Mừng
sống động là nội dung của việc truyền giáo (x. Gl 2,20). Việc
truyền giáo ngày nay không phải chỉ tìm đến một dân tộc xa
lạ, đến với những người khác mình về tôn giáo và văn
hoá, cũng không phải chỉ là việc dạy giáo lý hoặc thăng
tiến con người và phát triển cộng đồng nhưng là tiếp xúc
với mọi người mọi vật trong đời sống thường ngày để
chia sẻ bản thân mình cho họ như chính Ðức Kitô đã làm.
Nhà truyền giáo là tấm bánh Ðức Kitô được bẻ ra để
nuôi sống thế giới (x. Sứ điệp ÐTC Gioan Phaolô II nhân dịp
Khánh nhật Truyền giáo 2005; Ga 6,35.51.58.68).
Nhà
truyền giáo cần phải trở lại với Ðức Kitô và hoà
nhập thành một với Người qua đời sống cầu nguyện và
phụng vụ để Người chuyển thông quyền năng làm chứng cho
Tin Mừng qua các dấu lạ như chữa lành bệnh tật, xua trừ ma
quỷ, nói được thứ ngôn ngữ mới lạ của tình thương
mà Thánh Thần thúc đẩy trong lòng ta (x. Mc 16,16-20). Nhà
truyền giáo có thể chữa lành bệnh tật không phải như một
bác sĩ hay xua trừ ma quỷ không phải như một thầy pháp nhưng
với tư cách là chứng nhân của Ðức Kitô vì họ có thể
làm được mọi sự với Ðấng ban sức mạnh cho họ (x. Pl
4,13). Như thế, việc rao giảng Lời Chúa, cử hành bí tích và
bác ái từ thiện đều gắn bó mật thiết với nhau, hình
thành nên bản chất của Giáo Hội mà người tín hữu nào
cũng cần thể hiện trong đời sống (x. ÐTC Bênêđictô XVI,
Thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu, số 25).
Kết
luận
Khi
suy nghĩ về hiệu quả truyền giáo ở Việt Nam trong những năm
gần đây, chúng ta cùng cảm tạ Chúa vì những ơn lành
Người ban cho Giáo hội Việt Nam. Dù kết quả truyền giáo
chưa đạt được như lòng mong ước, chúng ta vẫn cảm nghiệm
được sức sống mãnh liệt và niềm hăng say vô tận của
người tín hữu Việt Nam muốn dấn thân cho công cuộc loan
báo Tin Mừng. Một vài dấu hiệu trình bày trong bài viết
này chỉ nhằm mục đích mời gọi mỗi người chúng ta trở
lại với Ðức Kitô để gắn bó mật thiết với Người vì
Ðức Kitô chính là con đường dẫn ta và dân tộc đến sự
thật toàn diện và sự sống vĩnh hằng.
Từ
Kinh Nghiệm Truyền Giáo Ở Việt Nam Và Hàn Quốc
Ðến
Việc Xây Dựng Nền Văn Hóa Nhân Bản Tâm Linh
Nhập
Ðề
Chúng
ta đã cùng nhau suy nghĩ về hiệu quả truyền giáo ở Việc Nam
trong khoảng 50 năm gần đây với nghi vấn rằng: hiệu quả ấy
chưa cao như lòng mong ước, đã tìm ra một vài nguyên nhân
dẫn đến tình trạng thiếu hiệu quả và gợi ý cần phải
trở lại với Ðức Giêsu Kitô. Tuy nhiên, những suy tư này
có lẽ còn nặng tính lý thuyết, cần được chứng minh bằng
chính thực tế của hoạt động truyền giáo.
Vì
thế, chúng ta sẽ cùng nhau khám phá vài kinh nghiệm truyền
giáo ở Việt Nam và Hàn Quốc, để thấy rằng việc truyền
giáo tác động lên xã hội, ảnh hưởng rất nhiều đến
nền văn hoá dân tộc và có thể thay đổi cả đất nước.
Do đó, muốn cho việc truyền giáo hiện nay ở Việt Nam có
kết quả tốt đẹp, cần xây dựng một nền nhân bản mới.
Bài
trình bày bao gồm mấy điểm chính sau đây:
1.
Hiệu quả việc truyền giáo ở Việt Nam trong bối cảnh văn
hoá và lịch sử
2.
Phân tích khái quát hiệu quả truyền giáo ở Hàn Quốc trong
50 năm gần đây
3.
Xây dựng một nền văn hoá nhân bản mới cho tín hữu Việt
Nam
1.
Hiệu Quả Việc Truyền Giáo Ở Việt Nam Trong Bối Cảnh Văn
Hóa Và Lịch Sử
Chúng
tôi đã trình bày khá chi tiết công cuộc truyền giáo ở
Việt Nam trong cuốn Niên giám Giáo hội Công giáo Việt Nam,
đặc biệt trong chương 10 và 11, từ trang 184-225. Ở đây
chúng tôi xin tóm tắt vài điểm chính như sau:
1.1.
Bối cảnh văn hoá và lịch sử
Bối
cảnh lịch sử:
Sau
khi Lê Lợi thắng quân Minh, triều đại nhà Lê kéo dài 360
năm (1428-1788). Xã hội Việt Nam vào thế kỷ XV ổn định, nông
nghiệp phục hồi và phát triển. Sang thế kỷ XVI, nhà Lê suy
yếu vì các vua ham mê tửu sắc, triều đình thiếu người
tài trí, xã hội bắt đầu hỗn loạn. Dân chúng khốn khổ vì
những cuộc chiến tranh loạn lạc liên miên giữa họ Trịnh
phò Lê và họ Mạc. Sau khi họ Trịnh chiếm lại được thành
Thăng Long, vào năm 1592, nhà Lê được khôi phục, nhưng mọi
quyền lực đều nằm trong tay họ Trịnh. Chiến tranh Lê-Mạc
chưa chấm dứt thì cuộc chiến đẫm máu giữa hai thế lực
Trịnh-Nguyễn lại diễn ra, rồi đến cuộc chiến giữa anh em
nhà Tây Sơn với chúa Nguyễn từ năm 1776 cho đến khi chúa
Nguyễn Ánh thắng Tây Sơn và thống nhất sơn hà năm 1802.
Cuộc sống người dân trong thời kỳ này vô cùng khốn khổ,
sinh mạng con người bị coi thường, đời sống kinh tế kiệt
quệ vì sưu cao thuế nặng để chi phí cho chiến tranh.
Từ
những năm 1802-1856, xã hội tạm yên ổn, nhưng thay vì cởi
mở như Minh Trị Thiên Hoàng ở Nhật Bản (Mutsuhito, 1852-1912),
các vua triều Nguyễn lại dùng chính sách bế quan toả cảng
đối với người nước ngoài, hoàn toàn theo quan điểm chính
trị của Trung Quốc, nên đời sống dân chúng vẫn hết sức
khó khăn, dân trí lạc hậu. Năm 1858, chiến tranh Pháp-Việt
bùng nổ. Những cuộc tàn sát tập thể tín hữu Kitô giáo
ở Ba Giồng, Hữu Ðạo, Biên Hoà, Bà Rịa (1861), Nam Ðịnh,
Hưng Yên (Bắc kỳ), Búng, Long Thành, Tân Triều, Trảng Bàng (Tây
Ninh) (1862) đã là lý do để người Pháp vin vào đó đánh
chiếm miền Nam Việt Nam. Năm 1862, Việt Nam phải ký Hoà ước
Nhâm Tuất nhường 3 tỉnh miền Ðông Nam Bộ cho Pháp.
Năm
1867, Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Bộ. Năm 1873, Pháp đánh
chiếm Hà Nội lần đầu và một số tỉnh ở miền Bắc. Năm
1874, Việt Nam phải ký Hoà ước Giáp Tuất nhường đứt cho
Pháp 6 tỉnh Nam kỳ, đồng thời người dân được tự do
truyền đạo và theo đạo. Sau Hoà ước này, phong trào Văn
Thân với khẩu hiệu "Bình Tây Sát Tả" để chống
Pháp và sát hại người Công giáo nổi lên ở Nghệ An, Nam
Ðịnh và lan dần khắp nước. Hàng chục ngàn người Công
giáo bị sát hại, nhất là trong những năm 1885-1886.
Năm
1882, Pháp chiếm Hà Nội lần II và các tỉnh miền Bắc dẫn
đến hoà ước Giáp Thân năm 1884, đặt miền Bắc dưới
sự bảo hộ của người Pháp, Nam kỳ là thuộc địa Pháp và
Trung kỳ thuộc quyền cai trị của triều đình Huế cho tới năm
1945 khi Ðảng Cộng Sản giành được chính quyền, thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Bối
cảnh văn hoá:
Chủ
quyền chính trị thay đổi liên miên nhưng bối cảnh văn hoá
hầu như không thay đổi từ năm 1428 đến 1945. Dân tộc ta tổ
chức xã hội theo tư tưởng Nho giáo dựa trên Tam cương,
Ngũ thường. Vua là chủ thể tối cao của đất nước mà
mọi người phải tôn thờ vì vua là Con Trời (Thiên Tử).
Vua nắm toàn quyền sinh sát trong tay, bắt ai chết là người
đó phải chết. Chỉ có vua nắm độc quyền về tôn giáo để
phong thần cho các vị thần linh và từ đó dân chúng mới
được phép tôn thờ. Triều đình lấy chữ Hán của người
Trung Hoa làm chữ chính thức và tổ chức các khoa thi dựa
trên các sách kinh điển của nền giáo dục Trung Quốc như
Tứ Thư, Ngũ Kinh. Phật giáo có ảnh hưởng nhiều trên dân
chúng và những biến thể của đạo Lão như các hình thức
thờ các thần vật, bùa chú mê tín rất phổ biến trong dân
gian (x. Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, Quyển Thượng và Quyển
Hạ, NXB TP. Saigòn, 1992).
Gia
đình theo chế độ đa thê, trọng nam khinh nữ với những hình
phạt rất nặng nề dành cho các phụ nữ hoang thai, gian dâm.
Xã hội còn nhiều hủ tục như tục tảo hôn, tục cho phép
đàn ông bỏ vợ vì một số lý do không chính đáng (thất
xuất) như: không con, không thờ cha mẹ chồng, đa ngôn, trộm
cắp, ghen tuông, có ác tật, dâm dật (x. Toan Ánh, Con người
Việt Nam, NXB TP. Saigòn, 1992, tr. 215). Nhiều trò vui, lễ
hội mang tính phóng đãng (x. Toan Ánh, Hội Hè Ðình Ðám, NXB
TP. Saigòn, 1992, tr. 244-279).
Cách
tổ chức làng xã dù có thay đổi ít nhiều dưới các
thời vua chúa khác nhau, nhưng các sinh hoạt và các tục lệ
hầu như vẫn giữ nguyên, nhiều khi "phép vua thua lệ làng"
(x. Toan Ánh, Làng Xóm Việt Nam, NXB TP. Saigòn, 1992).
Trong
bối cảnh lịch sử và văn hoá như thế, Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô đã được loan báo cho dân tộc Việt Nam.
1.2.
Các giai đoạn truyền giáo
Lịch
sử truyền giáo ở Việt Nam tạm chia thành những giai đoạn
sau đây:
-
Giai đoạn khai sinh (1533-1615) và mở đạo chính thức (1615-1659)
Khởi
đầu vào năm 1533, một người nước ngoài tên là Inêkhu
đã đến truyền giáo tại làng Ninh Cường, huyện Nam Châu
và làng Trà Lũ, huyện Giao Thuỷ (tỉnh Nam Ðịnh ngày nay).
Sau
đó, các vị thừa sai Dòng Tên đã đến truyền đạo ở cả
2 miền Nam Bắc, lấy sông Gianh làm ranh giới, phía Bắc gọi
là Ðàng Ngoài, do vua Lê chúa Trịnh nắm quyền; phía Nam gọi
là Ðàng Trong, do các chúa Nguyễn cai quản.
Từ
năm 1615, các linh mục F. Buzomi, D. Cavalho đến Cửa Hàn, Ðà
Nẵng, tiếp theo là các linh mục F. Pina, C. Borri và A. de Rhodes (Ðắc
Lộ). Ở Ðàng Ngoài có linh mục G. Baldinotti, P. Marques và A. de
Rhodes đến Cửa Bạng, Thanh Hoá, ngày 19-3-1627. Ðể hỗ trợ
cho việc truyền giáo, các thừa sai đã biên soạn giáo lý,
sáng tác kinh nguyện, thơ văn bằng chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ
với sự trợ giúp của các thầy giảng có học thức như
cụ Gioakim, sư cụ Chùa Phao, sư cụ Manuel, cụ nghè Giuse, đặc
biệt là 2 tác phẩm của cha Ðắc Lộ ấn hành ở Rôma năm
1651: Phép giảng Tám ngày và Từ điển Việt-Bồ-La, các
thánh truyện bằng chữ Nôm của G. Majorica.
Vào
năm 1665, sau 37 năm truyền giáo ở Ðàng Ngoài với 25 linh
mục và 5 trợ sĩ, và sau 50 năm ở Ðàng Trong với 39 linh
mục và 01 trợ sĩ, các thừa sai Dòng Tên rửa tội khoảng
100.000 tín hữu (trong đó có 20.000 ở Ðàng Trong) (x. Công
giáo và Dân tộc, Công giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm, NXB
Tôn Giáo, 1996, tr. 86).
-
Giai
đoạn hình thành (1659-1802)
Năm
1659, Ðức Thánh Cha Alexander VII lập 2 giáo phận ở Việt Nam (Ðàng
Trong và Ðàng Ngoài) và đặt 2 vị giám mục đầu tiên thuộc
Hội Truyền giáo Paris (MEP) làm đại diện Tông Toà. Ðức cha
Lambert de la Motte ở Ðàng Trong và F. Pallu ở Ðàng Ngoài.
Dù
có những sắc chỉ cấm đạo của vua chúa kèm theo những
cuộc bách hại dưới thời các chúa Trịnh ở miền Bắc,
các chúa Nguyễn ở miền Nam hoặc của vua Cảnh Thịnh nhà Tây
Sơn ở miền Trung, các giám mục và các thừa sai vẫn miệt
mài truyền đạo, và Giáo hội Việt Nam vẫn không ngừng
phát triển.
Vào
năm 1802, Giáo hội Việt Nam có 3 giáo phận với 121 linh mục
Việt Nam và 320,000 tín hữu, chiếm tỷ lệ khoảng 3% dân số.
Giáo phận Ðàng Trong có 60,000 giáo dân, Tây Ðàng Ngoài có
120,000 giáo dân và Ðông Ðàng Ngoài 140,000 giáo dân.
-
Giai đoạn thử thách (1802-1886)
Sau
khi vua Gia Long lên ngôi thống nhất đất nước năm 1802, cho
đến khi phong trào Văn Thân ngưng tàn sát người Công giáo
(1885-1886), có thể gọi đây là giai đoạn thử thách với
các cuộc bách hại triền miên của vua quan lẫn một phần dân
chúng chịu ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo, thù ghét sự
xâm lăng của người Pháp và hiểu lầm người Công giáo
đi với Pháp để phản bội đất nước.
Nhưng
đây cũng là giai đoạn truyền giáo rất thành công vì
người tín hữu Việt Nam đã tìm được con đường sống
trong cái lẽ tử sinh của kiếp người, giới thiệu được
nền văn hoá Công giáo cho dân tộc. Ðây cũng là thời kỳ
truyền giáo hiệu quả nhất. Trong vòng 80 năm, dân số Công
giáo tăng gấp đôi và tỷ lệ tăng từ 3% lên đến 7%.
Vào
cuối thời kỳ này, Giáo hội Việt Nam có 9 giáo phận, 4
giáo phận ở Ðàng Trong và 5 giáo phận ở Ðàng Ngoài,
với 9 giám mục, 219 linh mục thừa sai, 356 linh mục Việt Nam,
1,246 chủng sinh, 156 thầy giảng, 1,399 nữ tu, 930 nhà thờ, 292
cơ sở bác ái, và 648,435 giáo dân, chiếm tỷ lệ khoảng 7%
dân số (x. Niên giám Giáo hội Công giáo Việt Nam 2005, tr.
195).
-
Giai đoạn phát triển (1886-1960)
Sau
hoà ước 1884, Việt Nam được chia thành 3 kỳ: Nam kỳ, Bắc
kỳ và Trung kỳ. Người Công giáo được tự do theo đạo,
xây dựng các cơ sở vật chất, nhiều giáo phận mới
được thành lập, số tín hữu tăng nhanh. Tính đến năm 1939,
Giáo hội Việt Nam có 16 giáo phận, 17 giám mục, 1,544,765 giáo
dân trên tổng số 26,500,000 người, chiếm 7.5% (x. Bảng 12, tr.
19).
Sau
Hiệp định Genève 1954, Việt Nam chia thành 2 miền Nam Bắc, lấy
sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 làm ranh giới, với hai ý
thức hệ đối nghịch nhau. Trong thời gian này, có khoảng
650,000 tín hữu từ miền Bắc di cư vào miền Nam.
Ngày
24-11-1960, Ðức Thánh Cha Gioan XXIII đã thiết lập Hàng Giáo
phẩm Công giáo Việt Nam với 3 giáo tỉnh Hà Nội, Huế, Sài
Gòn. Một số giáo phận mới được thành lập. Giáo hội
Việt Nam lúc này có 20 giáo phận, 23 giám mục, 2,094,540 tín
hữu, 1,944 linh mục, 5,789 tu sĩ nam nữ và 1,530 chủng sinh trên
tổng số 30,172,000 dân, chiếm tỷ lệ 6.9% dân số (x. Bảng 12,
tr. 19).
Giai
đoạn này dù được tự do theo đạo, xây dựng được
nhiều nhà thờ, cơ sở giáo dục, xã hội, thậm chí được
chính quyền nâng đỡ, nhưng số người theo đạo lại không
nhiều. Tỷ lệ giảm từ 7% xuống 6.9% dân số.
-
Giai đoạn trưởng thành (từ 1960 đến nay)
Trong
giai đoạn này, cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc với hai ý
thức hệ kéo dài từ năm 1963 đến 1975. Do số tín hữu
tăng nên hai giáo tỉnh Huế và Sài Gòn lại được chia nhỏ
để lập thêm nhiều giáo phận: Ðà Nẵng, Ban Mê Thuột, Xuân
Lộc, Phú Cường, Phan Thiết. Vào cuối năm 1975, Giáo hội
Việt Nam có 25 giáo phận.
Ánh
sáng từ Công đồng Vatican II (1962-1965) đã lan toả trên các
giáo phận miền Nam theo đường hướng mục vụ và đại kết
với các hoạt động của nhiều hội đoàn Công giáo Tiến
hành trong xã hội, với hàng ngàn trường học các cấp
được xây dựng trong khi miền Bắc vẫn giữ nếp sống âm
thầm dưới chế độ Cộng sản với nhiều khó khăn và thử
thách.
Chiến
thắng của chính quyền Cộng sản miền Bắc đã dẫn đến việc
chính quyền miền Nam sụp đổ và thống nhất đất nước,
ngày 30-4-1975, đưa Giáo hội Việt Nam vào một giai đoạn mới.
Dù có khó khăn về vật chất vì các phương tiện hoạt
động mục vụ, các cơ sở hoạt động xã hội và kinh tế
ở miền Nam đều bị Nhà nước tiếp thu và quản lý, nhưng
Giáo hội Việt Nam lại thấy đây là dịp Thiên Chúa thanh tẩy
mình khỏi những vướng bận vật chất để chú ý hơn đến
tinh thần sống đạo, học hỏi Lời Chúa, cầu nguyện, dạy
giáo lý cũng như phổ biến đời sống đức tin, văn hoá,
đạo đức của người Việt Nam cho toàn thể gia đình nhân
loại, qua việc gần 1 triệu người đã di tản từ 1975-1990,
sang rất nhiều nước trên thế giới.
Từ
năm 1990 đến nay, qua chính sách cởi mở của Nhà Nước
đối với tôn giáo, Giáo hội Công giáo Việt Nam có nhiều
tự do hơn để tổ chức các hoạt động tôn giáo cũng như
các hoạt động bác ái xã hội. Số tín hữu bắt đầu gia
tăng so với tỷ lệ dân số, dù sự gia tăng không nhiều.
Tính đến 31-12-2008, Giáo hội Công giáo Việt Nam có 26 giáo
phận, 2 Hồng y, 2 Tổng Giám mục, 40 giám mục, 3,541 linh mục,
17,160 tu sĩ nam nữ, 6,187,486 tín hữu trên tổng số 86,160,000
người, chiếm 7.18% dân số. Trong gần 50 năm qua, Giáo Hội
Công Giáo Việt Nam đã có
thêm 5 giáo phận mới, số tín hữu tăng gấp 3, số linh mục
tu sĩ tăng gấp đôi.
Hiện
nay, nếu tính thêm số tín hữu Công giáo (khoảng 1 triệu) và
số người Việt ở nước ngoài (khoảng 3 triệu) mà Giáo
hội Việt Nam phần nào chịu trách nhiệm loan báo Tin Mừng,
tổng số tín hữu là 7 triệu trên 89 triệu người Việt,
chiếm tỷ lệ 7.86 % (x. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Niên
giám Giáo hội Công giáo Việt Nam 2005, Phụ lục: Cộng đồng
Công giáo Việt Nam Hải ngoại, NXB Tôn Giáo, Hà Nội, 2005, tr.
867-902).
1.3.
Truyền giáo và nền văn hoá Việt Nam
Xét
về mặt văn hoá, công cuộc truyền giáo ở Việt Nam đã
đóng góp rất lớn hay có thể nói đã giải phóng người
Việt khỏi lệ thuộc nền văn hoá Trung Hoa.
Từ
khi bị người Tàu đô hộ vào năm 179 TCN cho đến 1615, khi Tin
Mừng được các nhà truyền giáo Tây Phương loan báo, hầu
như mọi người dân Việt, từ vua quan đến dân chúng, chịu
ảnh hưởng nặng nề của nền văn hoá Trung Hoa. Dầu vậy, ý
thức phản kháng của dân tộc Việt vẫn âm ỉ bày tỏ qua
cách sống (thuốc Nam - thuốc Bắc), cách ăn mặc (mặc
váy-mặc quần), chữ viết (chữ Nôm - chữ Hán) nên người
Việt không mất nước và không bị đồng hoá so với dân
tộc Chiêm Thành ở miền Trung Việt Nam.
*
Các nhà truyền giáo đã dạy cho người Việt giá trị vô
cùng cao quý của con người trong những thế kỷ chiến tranh
liên miên mà mạng người bị coi rẻ như cỏ rác. Tin vào
Thiên Chúa và vào Ðức Giêsu Kitô họ sẽ được sống
muôn đời dù vua chúa có thể dùng họ như những món đồ
chơi trong cuộc tranh giành quyền lực.
Sống
dưới chế độ dân chủ chuyên chế, vua được tôn là
thiên tử (con trời), có toàn quyền sinh sát: vua bắt bầy
tôi chết mà người đó không chịu chết là người đó
bất trung (quân xử thần tử, thần bất tử bất trung). Còn
Kitô hữu lại được dạy mọi người đều bình đẳng, đều
là anh em trong đại gia đình nhân loại, có Thiên Chúa là Cha
nên ai cũng phải tôn trọng quyền sống của con người. Ðức
Giêsu mới là "Thiên Tử" thật sự, nhưng lại tự
nguyện chết để cứu độ chúng ta, nên người Kitô hữu
sẵn sàng hy sinh mạng sống để phục vụ Chúa và mọi người.
*
Sống trong một xã hội theo chế độ đa thê (trai thì năm thê
bảy thiếp), trọng nam khinh nữ (nhất nam viết hữu, thập nữ
viết vô), các Kitô hữu thời đó làm chứng cho sự thật
về quyền bình đẳng giới tính, về hôn nhân một vợ một
chồng, về hạnh phúc gia đình dựa trên tình yêu chung thuỷ
và tình yêu Thiên Chúa. Hạnh phúc này biểu lộ trong đời
sống gia đình của người Công giáo với những tiếng cười
tiếng hát và trong đời sống cộng đồng, với những công
việc cũng như trò vui mà nam nữ được tham dự như nhau.
*
Sống trong xã hội mà học thức là một cái gì quý giá chỉ
dành cho một thiểu số được ưu đãi, giàu sang, thì người
tín hữu lại muốn phổ biến sự khôn ngoan của Thiên Chúa
cho mọi người. Mỗi làng ngày xưa chỉ có một vài người
đi học để viết được cái văn tự bán nhà bán đất,
làm sổ đinh sổ điền thay cho cả làng; nếu may mắn hơn thì
thi đỗ làm quan. 99% dân số còn lại đều mù chữ, thất
học. Trái lại, người Công giáo ai cũng được học, ai
cũng biết chữ. Lúc đầu học chữ Hán, chữ Nôm, sau lại
cùng nhau khám phá và truyền bá loại chữ dễ đọc hơn, dễ
viết hơn là chữ Quốc Ngữ, như chúng ta đang dùng, để phổ
biến sự thật cho mọi người. Hàng trăm bộ sách Hán Nôm,
hàng ngàn cuốn sách Quốc Ngữ của người Công giáo còn
để lại trong kho tàng văn hoá dân tộc như muốn chứng minh
điều đó.
Ðời
sống hằng ngày với những kinh sách, tuồng kịch diễn mỗi
dịp lễ trọng, mỗi mùa phụng vụ giúp cho tất cả từ trẻ
đến già đều biết chữ nghĩa, trở thành người có văn
hoá và dạy văn hoá cho đồng bào. Chỉ trong vòng 200 năm,
tính từ khi tiếng Việt được khai sinh chính thức với cuốn
Từ điển Việt-Bồ-La và sách Phép giảng Tám ngày của Linh
mục Ðắc Lộ, vào năm 1651, cho đến lúc tờ Gia Ðịnh báo,
tờ báo tiếng Việt đầu tiên, ra mắt ở miền Nam năm 1865,
ta mới thấy nếp sống văn hoá của người Công giáo ảnh
hưởng nhanh chóng và mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam như thế
nào.
*
Nhờ chữ viết, nhất là nhờ các vị thừa sai dạy cho biết
khoa học, kỹ thuật Tây Phương, tín hữu Công giáo trở
thành những người truyền bá sự thật của Thiên Chúa ghi
khắc trong vũ trụ vạn vật. Thời đó, mỗi làng có vài ba
cái ao: tắm rửa, ăn uống đều lấy nước từ đó. Người
Công giáo hiểu rằng cần phải gìn giữ thể xác của mình cho
khoẻ mạnh, cho xứng đáng với ơn Chúa, nên dạy bảo nhau
cần phải lọc nước bằng than, cát, sỏi mới được dùng,
rồi phải đun sôi mới nên uống. Cách đây năm bảy chục
năm, cứ 10 đứa trẻ thì may ra có 3 đứa sống quá 1 tuổi,
rất nhiều đứa bị chết yểu vì bệnh tật. Vì dùng nước ao
tù nên cả làng cứ 100 người thì có khoảng 90 đến 95
người bị toét mắt, lúc nào cũng che miếng vải đen sùm
sụp trước mắt. Nhưng con cái người Công giáo đứa nào
cũng khoẻ mạnh, đẹp đẽ nên nhiều người lương cho người
Công giáo con của mình để nó được sống. Nhiều chàng trai
bên lương chỉ muốn lấy vợ Công giáo vì người nào đôi
mắt cũng đẹp. Còn những cô gái ngoại đạo lại muốn lấy
chồng Công giáo để gia đình có những đứa con khoẻ mạnh
và hoà thuận yêu thương nhau trong đời sống một vợ một
chồng.
*
Với những chữ "tả đạo" thích trên trán, người
Công giáo không thể đi học, không thể buôn bán trong xã
hội. Lúc bấy giờ họ hiểu rằng mình phải yêu thương nhau,
phải đoàn kết và chia sẻ nghề nghiệp cho nhau. Làm ra hàng
gì thì phải thật tốt, bán ra cái gì thì phải thật rẻ. Nhờ
vậy ai cũng muốn trao đổi hàng hoá với người Công giáo,
và họ đã vượt qua được giai đoạn khó khăn.
*
Bị bắt bớ quá thì người tín hữu trốn vào rừng sâu
làm rẫy, như ở La Vang, Trà Kiệu, nhờ thế mà mở mang bờ
cõi đất nước. Với lý lịch "tả đạo", khó sống
ở miền Bắc, tín hữu phải đi vào miền Trung, miền Nam theo
đoàn quân viễn chinh và trở thành những người mở
đường, dựng nước. Chính trong miền Nam, sống với những
người có thể nói là đầu trộm đuôi cướp theo chính
sách di dân thời xưa, người Công giáo lại cảm thấy dễ
thở hơn, dù phải hy sinh rất nhiều, phải chiến đấu với
từng đàn thú dữ, với những đám muỗi bay dày như đám
mây. Người Công giáo trở thành những người tiên phong
với tinh thần hào phóng, thân thiện của người phương Nam
thuở trước. Người tín hữu chia sẻ tình yêu thương với
hết mọi người, cùng quên đi những quá khứ xấu xa,
những lý lịch đen tối của nhau để sống hoà thuận bên nhau,
chỉ cần gọi nhau là anh Hai, chị Ba, cô Tư, chú Tám và coi nhau
như một đại gia đình của Thiên Chúa.
*
Các nhà Nho tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh với phong
trào Ðông Du; Lương Văn Can, Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể với
phong trào Ðông Kinh Nghĩa Thục đã hô hào dân chúng bỏ
búi tóc, cắt móng tay, mặc Âu phục, học chữ Quốc Ngữ,
sống đời gia đình một vợ một chồng như người Công giáo.
Tất cả phong trào ấy đã làm cho đất nước của chúng ta
phát triển.
Những
sự thật về giá trị và quyền lợi căn bản của con người,
về bình đẳng nam nữ, về sự chung thuỷ trong gia đình, về
giá trị của khoa học, kỹ thuật# mà chúng ta thấy dường như
hiển nhiên, rõ ràng trong thời đại ngày nay, thì các bậc
tiền bối Công giáo đã phải vất vả truyền giảng cho
người đương thời với mình bằng biết bao nỗi tủi nhục, hy
sinh và có khi bằng cả sự sống quý báu.
Nếu
hiểu văn hoá là hệ thống các giá trị vật chất và tinh
thần, do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt
động thực tiễn khi tương tác với môi trường tự nhiên
và xã hội của mình (x. Trần Ngọc Thêm, Tìm hiểu về Bản
sắc Văn hoá Việt Nam, NXB TP. Saigòn, 2004, tr. 20-27), thì
người tín hữu Công giáo Việt Nam trong những giai đoạn
truyền giáo vừa qua, từ 1659-1885, đã xây dựng một nền
văn hoá mới cho dân tộc. Nền văn hoá này lấy con người
làm gốc, nên tạm gọi là nền văn hoá nhân bản, với
những nét chính yếu sơ khởi cần được phát triển thêm
trong tương lai.
Ðể
làm sáng tỏ thêm mối liên hệ giữa truyền giáo và văn
hoá, chúng tôi xin giới thiệu một thí dụ khác. Ðó là
công cuộc truyền giáo của Giáo hội Hàn Quốc trong 50 năm
gần đây với bối cảnh lịch sử, văn hoá có rất nhiều
điểm tương đồng với Giáo hội Việt Nam.
2.
Trình Bày Và Phân Tích Khái Quát Về Kết Quả Truyền Giáo
Ở Hàn Quốc Trong 50 Năm Gần Ðây
2.1.
Bối cảnh lịch sử và văn hoá
(x.
NN., Trịnh Huy Hoá biên dịch, Ðối thoại với các nền văn
hoá Triều Tiên, NXB Trẻ, TP. Saigòn, 2001)
Ðại
Hàn là một quốc gia nằm ở bán đảo Triều Tiên, phía Bắc
giáp Trung Quốc và Nga, phía Ðông giáp biển Nhật Bản, gồm
hai miền Nam Bắc theo hai thể chế chính trị khác nhau, lấy vĩ
tuyến 38 làm ranh giới. Bắc Hàn hiện nay theo chế độ Cộng
sản, với tên nước là Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều
Tiên. Nam Hàn theo chế độ Tư bản, với tên nước là Cộng
hoà Hàn Quốc.
Ðại
Hàn lập nước vào khoảng năm 3000 TCN với tên nước là
Choson (Triều Tiên). Những người dân ở bán đảo này là
những người châu Á tiền sử sống dưới ảnh hưởng của
nền văn hoá Trung Quốc. Năm 108 TCN, nhà Hán ở Trung Quốc
chiếm nửa phần phía Bắc của bán đảo. Các bộ lạc Ðại
Hàn đã chiếm lại một phần lãnh thổ vào năm 75 TCN và
lập nên các vương quốc Silla (57 TCN), Koguryo (37 TCN) và Paekche
(18 TCN), tồn tại trong 700 năm. Từ năm 668-917, các vua triều
Silla chiến thắng nhà Ðường ở Trung Quốc, thống nhất đất
nước, mở ra một thời hoàng kim cho dân tộc Hàn.
Thủ
lĩnh Wang Kon chiếm được vương quốc năm 918 và lập nên
triều đại Koryo (Korea), kéo dài từ 918-1392. Sau đó tướng Yi
Songgye đã giành quyền và lập nên triều đại Yi (1392-1910)
và chuyển đô về Hanyang (Seoul hiện nay). Từ năm 1592-1598,
Ðại Hàn bị tàn phá nặng nề do cuộc chiến tranh xâm lăng
của Nhật Bản. Từ năm 1600-1894, người Trung Hoa xâm chiếm
Ðại Hàn và buộc cống nộp. Ðến năm 1910, người Nhật lại
chiếm đóng Ðại Hàn sau khi Nhật thắng Liên Xô trong cuộc
chiến 1904-1905. Từ những ngày đầu lập nước cho đến thế
kỷ XX, người dân Ðại Hàn chịu ảnh hưởng nặng nề của
văn hoá Trung Hoa: xã hội được tổ chức theo Khổng giáo,
dân chúng theo Phật giáo và thờ kính ông bà tổ tiên với
ảnh hưởng của tín ngưỡng Shaman.
Năm
1945, Chiến tranh Thế giới thứ II kết thúc, Nhật bại trận,
Ðại Hàn bị chia cắt thành hai miền: ở phía Bắc vĩ tuyến 38,
Liên Xô tiếp quản lập thành Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
Triều Tiên (1-5-1948), với thủ đô là Pyonnyang. Ở phía Nam vĩ
tuyến 38, Hoa Kỳ tiếp quản năm 1948, với thủ đô là Seoul.
Cuộc chiến Nam Bắc đã xảy ra do sự đối kháng của hai ý
thức hệ Cộng sản và Tư bản đã tàn phá đất nước
nặng nề (1950-1953). Từ đầu thế kỷ XX, người dân Ðại
Hàn biết đến nền văn hoá Tây Phương.
2.2.
Công cuộc truyền giáo
Công
giáo được truyền vào Ðại Hàn từ năm 1784, qua các tín
hữu giáo dân học đạo ở Trung Quốc. Dù chưa có linh mục
cai quản nhưng vào năm 1794, đã có khoảng 4,000 tín hữu.
Ðiều này cho thấy sức sống mãnh liệt và tinh thần truyền
đạo của tín hữu Ðại Hàn. Năm 1857, số tín hữu là 15,000
người. Giáo hội Ðại Hàn trải qua 4 cuộc bách hại nặng
nề trong thế kỷ XIX, hàng ngàn người đã bị giết. 103 vị
thánh Tử đạo đã được tôn phong vào năm 1984 thuộc các
thời kỳ bách hại này.
Năm
1883, người dân Ðại Hàn được tự do tôn giáo khi chính
sách bế quan toả cảng được tháo gỡ nhưng trong thực tế
việc truyền giáo không thu được kết quả vì dân chúng vẫn
còn chịu ảnh hưởng nặng nề của Tam giáo Ðông Phương. Trong
Thế Chiến thứ II, hầu hết các thừa sai nước ngoài bị
bắt bớ và bị trục xuất, nhiều chủng viện bị đóng cửa
và nhà thờ bị phá huỷ. Sau khi được giải phóng khỏi ách
thống trị của Nhật Bản, Giáo hội Hàn Quốc ở miền Nam
mới được tự do tôn giáo thật sự và từ sau cuộc
chiến Nam Bắc, Giáo hội Hàn Quốc mới thật sự có những
thành công lớn lao về mặt truyền giáo đáng chúng ta nghiên
cứu.
Giáo
hội Triều Tiên (Bắc Hàn) có khoảng 100,000 tín hữu (theo
Thống kê của Toà Thánh Vatican năm 1969) trên tổng số
23,761,000 dân. Nhưng sau cuộc chiến Nam Bắc, việc theo đạo Kitô
chỉ được thể hiện trong nội bộ gia đình và bị ngăn cản
dữ dội cho đến ngày nay.
Giáo
hội Hàn Quốc hiện có 3 giáo tỉnh, 12 giáo phận, 1 giáo phận
quân đội, 1 Hồng y, 5 Tổng Giám mục, 24 Giám mục, 1,471 giáo
xứ, 3,525 linh mục (2,947 triều, 578 dòng), 1,702 chủng sinh, 636 nam
tu sĩ, 8,828 nữ tu sĩ, 12,824 giáo lý viên, rửa tội 158,978
người, 4,682,000 giáo dân trên tổng số 48,500,000 dân (chiếm
9.65%) (x. Catholic Almanac, 2009, tr. 316-317).
Vài
con số thống kê sau đây để thấy bước phát triển của
Công giáo và Tin Lành ở Hàn Quốc:
-
Năm
1949: Công giáo và Tin Lành chỉ chiếm 1% dân số ở Hàn Quốc.
-
Năm
2009: Công giáo 9.65% và Tin Lành 26%. Cả nước có 35.65% theo
Kitô giáo.
-
Chỉ
trong vòng 60 năm dân số Công giáo tăng từ 1% lên 9.65% và
trong 10 năm (1999 2009) tăng từ 7.73% lên 9.65% (x. Phụ lục,
Thống kê Giáo hội Hàn Quốc 1999-2009, Bảng 28, tr. 50).
2.3.
Phân tích sự thành công của việc truyền giáo ở Hàn Quốc
Giáo
hội Hàn Quốc có thể là một trường hợp điển hình trong
công việc truyền giáo cho nhiều giáo hội khác, đặc biệt
là cho Giáo hội Việt Nam vì hai giáo hội có nhiều nét tương
đồng về bối cảnh lịch sử: chịu ảnh hưởng của Tam giáo
Ðông Phương và văn hoá Trung Hoa, bị chia đôi đất nước,
có nội chiến Nam Bắc với hai ý thức hệ đối kháng và
đang mở ra cho nền văn hoá Tây Phương. Tuy nhiên, kết quả
truyền giáo trong vòng 60 năm ở hai nước thật khác nhau:
trong khi Hàn Quốc từ năm 1949-2009, tỷ lệ dân số Công giáo
tiến từ 1% lên 9.65% thì ở Việt Nam từ 1960-2008, tăng từ
6.9% lên đến 7.1% (x. Phụ lục, Thống kê Giáo hội Việt Nam,
1933-2008, Bảng 12, tr. 19).
Sự
phát triển của Giáo hội Hàn Quốc có thể do những tác
nhân sau đây:
*
Hàng Giáo phẩm của Giáo hội Hàn Quốc được tuyển chọn
kỹ lưỡng và ít bị tác động bởi chính quyền dân sự.
Việc tuyển chọn các giám mục có sự nhất trí cao nên dẫn
đến sự vâng phục hầu như tuyệt đối trong cộng đồng tín
hữu vì người Hàn Quốc rất kính trọng người trên, coi
trọng tôn ti trật tự. Trong một số nước hiện nay, luôn
luôn có sự can thiệp của chính quyền dân sự, thậm chí
của cả những phe nhóm trong nội bộ Giáo Hội đối với
việc tuyển chọn giám mục nên dẫn đến sự thiếu đoàn
kết trong cộng đồng giáo hội địa phương. Người ta vẫn
dùng chính sách "chia để trị" khi muốn can thiệp vào
những cộng đồng tôn giáo. Tuy nhiên, sự suy yếu của cộng
đồng tín hữu, dù chỉ là thiểu số, cũng dẫn đến sự suy
yếu của cộng đồng dân tộc.
*
Việc đào tạo linh mục, tu sĩ ở Hàn Quốc rất nghiêm túc
và được mọi người quan tâm đóng góp. Hầu như tất cả
các sách quan trọng, cần thiết hay có giá trị của Giáo Hội
đều được dịch sang tiếng Hàn để tạo điều kiện cho việc
đào tạo này. Nhiều gia đình Công giáo Hàn Quốc hiện nay
hầu như chỉ có 1 hoặc 2 con nhưng sẵn sàng hiến dâng cho Chúa.
Những linh mục, tu sĩ đó rất ý thức về sứ mạng của
mình và luôn hoàn thành nhiệm vụ với tinh thần kỷ luật cao.
*
Giáo dân Hàn Quốc đóng góp tích cực cho giáo hội địa
phương, tự nguyện đảm nhận những công việc điều hành
tại giáo phận và giáo xứ. Giáo hội Hàn Quốc làm theo
các anh em Tin Lành trong việc yêu cầu tín hữu tự nguyện
đóng góp từ 5-10% thu nhập cá nhân. Nhiều tín hữu nghèo
không bị buộc đóng góp nhưng vẫn sẵn sàng tham gia bằng
công sức lao động của mình cho công việc chung. Nhờ vậy
Giáo hội Hàn Quốc tự lập về tài chính, không bao giờ đi
xin các tổ chức hay giáo hội khác, ngược lại còn giúp
đỡ những tổ chức này. Giáo hội tự trang trải tất cả
các chi phí như trả lương cho các linh mục, tu sĩ và giáo dân
trong công tác truyền giáo, dù nhiều người không muốn nhận.
*
Giáo hội Hàn Quốc coi trọng giáo dân vì ngay từ đầu lịch
sử, chính giáo dân đảm nhiệm công tác truyền giáo. Các
hội đoàn Công giáo Tiến hành, nhất là Legio Mariae, được
tổ chức chặt chẽ và hoạt động hăng say với những
chương trình đào tạo rõ ràng và cụ thể. Trong giáo xứ,
nhiều cộng đồng cơ bản được thành lập để thúc đẩy
mối liên kết giữa các gia đình tín hữu với nhau: các
thành viên trong cộng đồng chia sẻ niềm vui bằng cách hội
họp để cầu nguyện và sau đó cùng giải trí, xem ti vi chung
với nhau. Người làm bác sĩ thì khám bệnh, người làm kỹ
sư thì sửa chữa máy móc, điện nước cho những thành
viên trong cộng đồng với giá rẻ hoặc không lấy tiền. Từ
đó, người dân cảm nghiệm được tình bác ái liên kết
thật sự trong cộng đồng Giáo Hội.
*
Người tín hữu được đào tạo cẩn thận, được huấn
luyện để trưởng thành với những kỹ năng sống, đặc
biệt là giới trẻ. Những người này được huấn luyện
từ cách ăn nói, đi đứng, tổ chức công việc và đời
sống cho đến các kỹ năng làm chủ cảm xúc, thời giờ,
tiền bạc... Nhiều thanh niên Công giáo sau khi tốt nghiệp phổ
thông trung học, trước khi đi nghĩa vụ quân sự hay vào đại
học thường dành một tháng hè để phục vụ cộng đồng.
Họ đăng ký với một cha xứ ở miền xa hay các điểm
truyền giáo (năm 2002 có 1.042 điểm) để đến dạy học cho
người mù chữ, sinh hoạt hội đoàn, giúp đỡ người
nghèo, người tàn tật... Những thanh niên nam nữ Công giáo
này thường trở thành những người cuốn hút các bạn
trẻ trong cộng đồng địa phương, nhờ đó đạo Công giáo
được biết đến và nhiều người tin theo qua đời sống
chứng nhân. Những chương trình đào tạo này được thực
hiện trong các trường lớp ngày Chủ Nhật mà giáo phận
nào cũng thực hiện. Năm 2000 có 267,742 trường Chủ Nhật,
năm 2002 có 260,724 trường (x. Niên giám Giáo hội Hàn Quốc
2000-2002, tr. 15). Ngoài ra, ta còn phải kể thêm 13 đại học
Công giáo với 34,470 sinh viên, vào năm 2002 (x. Phụ lục,
Thống kê Giáo hội Hàn Quốc 1999-2009, Bảng 28, tr. 50).
*
Giáo hội Hàn Quốc chú ý nhiều đến việc sử dụng những
phương tiện truyền thông xã hội trong công tác truyền giáo.
Xứ đạo nào cũng có phòng truyền thông với những sách
báo, phim ảnh cho tín hữu mượn đọc hay sử dụng. Có bản
tin nội bộ của giáo xứ, bản văn phụng vụ cho các ngày
Chủ Nhật, sách hát, sách lễ dùng trong cộng đồng với giá
rất rẻ. Giáo phận nào cũng có đài phát thanh, truyền hình
hoặc chương trình phát thanh, truyền hình riêng của giáo phận
dành cho cộng đồng tín hữu.
Giáo
hội Công giáo và Tin Lành ở Hàn Quốc đã ảnh hưởng
mãnh liệt vào nền văn hoá dân tộc để chuyển đổi thái
độ trọng nam khinh nữ, phân biệt giai cấp xã hội (Yangban,
Chunging, Sangmin, Chonmin) sang thái độ tôn trọng nhân phẩm, bình
đẳng nam nữ, vượt qua thái độ thù hận với các nước
láng giềng, yêu thích khoa học kỹ thuật Tây Phương và lòng
bác ái Kitô giáo. Trong đường hướng văn hoá mới này,
Nam Hàn đã có bước tiến vượt bật để từ một nước
kiệt quệ về kinh tế sau cuộc chiến Nam Bắc đã trở thành
một nước có nền kinh tế phát triển với tổng thu nhập
quốc dân (GDP) năm 2006 là 18,340 USD so với Việt Nam là 723 USD,
với Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa 2,016 USD, Thái Lan 3,252 USD,
Philippines 1,362 USD, Ðài Loan 15,569 USD (x. Tổng cục Thống kê,
Niên giám Thống kê 2007, NXB Thống Kê, tr. 687-688).
3.
Xây Dựng Một Nền Văn Hóa Nhân Bản Mới Cho Tín Hữu Việt
Nam
Từ
kinh nghiệm truyền giáo của người tín hữu Kitô giáo ở
Việt Nam và Hàn Quốc, chúng ta thấy người Công giáo Việt
Nam có thể đóng góp rất nhiều cho xã hội khi giới thiệu
cho đồng bào mình một nền văn hoá với các giá trị mới
mẻ của Tin Mừng Chúa Kitô để rồi từ đó thay đổi và
làm phát triển xã hội trong mọi lĩnh vực. Ðó cũng là
yêu cầu của việc hội nhập văn hoá mà ÐTC Gioan Phaolô II
đã nhắc đi nhắc lại qua từ "văn hoá" (125 lần) và
"hội nhập văn hoá" (21 lần) trong Tông huấn Giáo Hội
tại châu Á để nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề này
trong công cuộc loan báo Tin Mừng.
3.1.
Xây dựng một nền văn hoá mới cho dân tộc
Chúng
ta có thể nói rằng người tín hữu Kitô đã giới thiệu
cho đồng bào mình ở Việt Nam và Hàn Quốc một nền văn
hoá mới. Ðó là nền văn hoá Công giáo với các giá trị
mới về nhân phẩm của con người trong một nền quân chủ
chuyên chế độc tài, về bình đẳng nam nữ trong một xã hội
chấp nhận chế độ đa thê, trọng nam khinh nữ, về sự hiện
diện của Thiên Chúa Ba Ngôi giữa những tôn giáo Ðông
Phương không biết đến Ngài, về cấu trúc của con người
với hồn và xác do Thiên Chúa dựng nên để sống mãi mãi
với Chúa thay vì tan rã như vạn vật tự nhiên hoặc thay
đổi trong vòng luân hồi của kiếp người, về cách tổ
chức làng xóm thành những xứ đạo với luật lệ dựa
vào lòng bác ái và khoan dung của Thiên Chúa, về cách tổ
chức gia đình cho có tôn ti trật tự nhưng vẫn tràn đầy
niềm vui và tự do, về cách tổ chức đời sống cá nhân
để không chiều theo những dục vọng thấp hèn mà vẫn phát
triển nhiều khả năng của con người. Tất cả tập trung cho con
người trong những mối tương quan cơ bản của mình. Ðây là
nền văn hoá nhân bản mới.
Những
giá trị này lại được thể hiện qua những kỹ năng sống
mới phù hợp với khoa học kỹ thuật Tây Phương tạo nên
những con người khoẻ mạnh, thông minh, đẹp đẽ, những gia
đình an vui, hạnh phúc và những cộng đồng sống yêu thương,
đùm bọc lẫn nhau dù có bị chính quyền lên án và cộng
đồng xã hội ghét bỏ vì họ chưa biết hay chưa quen với
những giá trị mới mẻ ấy. Tuy nhiên, một khi cảm nghiệm
được giá trị của chúng nơi chính bản thân, gia đình và
cộng đồng thì nền văn hoá mới này lại thu hút người ta
đến nỗi dù biết theo tôn giáo mới là chắc chắn sẽ gặp
nguy hiểm, có khi còn mất mạng, nhưng họ vẫn theo đuổi, tuân
giữ vì nó thật sự mang lại những điều tốt đẹp cho con
người. Rồi khi đa số dân chúng chọn lựa những giá trị
ấy, chúng trở thành nền văn hoá của dân tộc, của quốc
gia mà nhiều khi người đời sau không còn nhớ đến cội
nguồn của chúng nữa.
Ðó
là trường hợp của nền văn hoá Việt Nam với những giá
trị mới mẻ nhận được từ đạo Công giáo. Sự chọn
lựa của người dân Việt đối với đạo Công giáo ở
miền Nam Việt Nam là một thí dụ điển hình. Từ giữa thế
kỷ XVII, nhiều người ở miền Trung và miền Nam đã biết
đến đạo Công giáo. Ðến giữa thế kỷ XVIII đã có nhiều
tín hữu Công giáo, trong đó có cả ba anh em nhà Tây Sơn (Nguyễn
Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ) nhưng chính đoàn quân Tây Sơn
lại có những hành động cướp bóc, giết hại đối với
dân chúng và bách hại cả người Công giáo (x. Hội Ðồng
Giám Mục Việt Nam, Niên
giám Giáo hội Công giáo Việt Nam 2005, NXB Tôn Giáo, Hà Nội,
2005, tr. 212; Nguyễn Phương, Việt Nam thời bành trướng Tây
Sơn, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1968).
Người
dân Việt đón nhận những giá trị của nền văn hoá thể
hiện qua cách sống đạo của tín hữu Công giáo, qua loại
chữ viết mới lạ mà ta gọi là chữ Quốc Ngữ, nhanh chóng
đến không ai ngờ vì ngay từ năm 1865, miền Nam đã có tờ
báo tiếng Việt đầu tiên, trong khi triều đình Huế vẫn coi
chữ Hán là văn tự chính thức cho đến đầu thế kỷ XX.
Từ miền Nam, chữ Việt lại lan dần ra miền Trung và miền
Bắc. Chính sự đón nhận những giá trị mới này đã là
một trong những nguyên nhân chính yếu tạo nên sự thù ghét
của các nho sĩ, khơi dậy phong trào Văn Thân chống Pháp và
giết hại người Công giáo sau này.
Như
thế, đạo Công giáo được người dân Việt tiếp nhận và
chọn lựa với tất cả ý thức về giá trị chứ không
phải vì lòng thiện cảm hay thù hận đối với người này
hay kẻ khác.
3.2.
Tầm quan trọng của văn hoá trong công cuộc truyền giáo
Từ
những thí dụ trên đây, chúng ta nhận ra tầm quan trọng của
văn hoá và việc đưa Tin Mừng hội nhập vào nền văn hoá
dân tộc. Chúng ta đã biết văn hoá là tất cả những gì
làm cho dân tộc này khác với dân tộc kia từ những sản
phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục
tập quán, lối sống và lao động (Federico Mayor, Tổng Giám
đốc UNESCO). Hơn nữa, Công đồng Vatican II còn xác định một
cách rộng rãi hơn: văn hoá là phương cách đặc thù mà
mỗi người, mỗi dân tộc dựa vào để tổ chức các quan
hệ của mình với thiên nhiên, với anh chị em đồng loại,
với bản thân mình và với Thiên Chúa, để có được một
cuộc sống nhân đạo trọn vẹn (x. CÐ. Vat. II, Hiến chế Gaudium
et Spes, số 53). Còn việc hội nhập văn hoá chính là nỗ lực
của Kitô hữu muốn đưa Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô thâm
nhập vào trong mọi lĩnh vực xã hội để làm cho xã hội ấy
tốt đẹp hơn theo đúng ý Thiên Chúa.
Trong
lĩnh vực truyền giáo, trước hết, nội dung Tin Mừng là
Lời Thiên Chúa đã hoà nhập vào thế giới này, trở
thành một con người cụ thể là Ðức Giêsu Nazareth, đón
nhận nền văn hoá Do Thái. Người là gương mẫu cho tất cả
những ai muốn loan báo Tin Mừng cần phải biết quên mình để
hoà nhập. Tin Mừng cũng là những lời giảng dạy của
Ðức Giêsu trong Tân Ước được biên soạn và viết bằng
chữ Hy Lạp, với ảnh hưởng của văn hoá Hy-La thời đó
nên cần được hiểu đúng và giải thích rõ ràng cho
người nghe. Tiếp theo, người rao giảng Tin Mừng cũng có sẵn
một nền văn hoá diễn tả trong cách sống của mình. Nếp
sống này phải phù hợp với Tin Mừng thì mới thu hút
được người khác theo Ðức Kitô. Cuối cùng, người nghe
Tin Mừng cũng đang có sẵn một nền văn hoá bản địa cần
thay đổi để phù hợp với Tin Mừng.
Người
Công giáo Việt Nam sau khi giới thiệu những giá trị của nền
văn hoá mới cho dân tộc và được đồng bào đón nhận
trong những giai đoạn đầu của công cuộc truyền giáo thì
dường như đã ngủ quên trong chiến thắng và bỏ mất vai
trò tiên phong của mình trong việc xây dựng nền văn hoá
mới cho dân tộc. Trước đây, người tín hữu không có
nhà thờ, xứ đạo, trường học hay cơ sở xã hội thì họ
diễn tả các giá trị mới này bằng chính đời sống của
mình. Ngày nay, họ lại quá tập trung sức lực cho việc xây
dựng cơ sở vật chất, cho những nghi lễ phụng tự hoành
tráng, những giờ kinh cầu nguyện công khai dường như chỉ
dành cho Thiên Chúa mà quên mất con người, ngoại trừ một
vài dịp đóng góp cho việc từ thiện. Người ngoài Kitô
giáo nhận thấy rằng theo đạo Kitô thì đời sống thường
ngày cũng chẳng thay đổi bao nhiêu mà còn thêm những ràng
buộc về lễ lạy, đóng góp tốn phí!
Trước
đây, người Công giáo nào cũng chăm chỉ học hành để
phổ biến chữ Quốc Ngữ với những bài thơ, bài văn,
những tuồng kịch, câu đố, câu hò... Nhưng khi chữ Quốc Ngữ
đã được dân tộc đón nhận thì dường như người tín
hữu Công giáo Việt Nam lại không còn hứng thú để học
hành, sáng tác. Hoạ hiếm lắm mới tìm thấy được nhà thơ,
nhà văn Công giáo có tầm cỡ như Hàn Mạc Tử. Nhiều
cuốn sách Công giáo còn viết sai chính tả. Các sách triết
học, thần học dành cho người Công giáo thật là khan hiếm
và sử dụng những từ chuyên môn thật khó hiểu đối
với dân chúng.
Ðến
những vùng hay xứ đạo có nhiều người Công giáo sống
tập trung, người ta cũng không tìm ra những nét đặc biệt
của nếp sống Công giáo, buôn bán thì cũng nói thách, nói
dối, với đủ loại hàng giả hàng thật lẫn lộn nhau, gia
đình thì cũng xào xáo, chửi rủa, đánh lộn, ly thân, ly
hôn như các người không Công giáo. Thanh niên nam nữ cũng
chưa chứng tỏ một nếp sống văn hoá Công giáo để ăn
nói nhã nhặn, cư xử thanh lịch, sống khoẻ mạnh với những
bài tập thể dục, những trò chơi thể thao, những thái độ
dấn thân hy sinh vì đại nghĩa như đã từng có trước đây.
Người Công giáo với lịch sử 2,000 năm đã có rất nhiều
những suy tư nhận thức nhưng lại chưa biến chúng thành
những kỹ năng sống cụ thể.
Hậu
quả là số người tin vào Ðức Kitô không còn gia tăng
nhanh chóng như trong thời buổi đầu của thời kỳ mở đạo.
Tại một số nước trên thế giới, số tín hữu Công giáo
còn giảm sút. Có thể là vì những Kitô hữu này đã bỏ
mất những ân huệ Thánh Thần mà Ðức Kitô vẫn trao ban cho
tất cả những ai tin vào Người. Chính vì thế mà Giáo Hội
toàn cầu đang mời gọi tín hữu Công giáo trở về với
Ðức Kitô để học lại bài học loan báo Tin Mừng của mình
và xây dựng một nền nhân bản thật sự mới mẻ và toàn
diện cho con người mà chúng tôi sẽ giới thiệu nơi bài
nghiên cứu khác.
3.3.
Xây dựng một nền văn hoá nhân bản
Muốn
cho công cuộc truyền giáo có hiệu quả nhanh chóng và lớn
lao như ở Việt Nam thời trước và Hàn Quốc gần đây,
chúng ta phải quan tâm xây dựng những giá trị mới mẻ để
tạo nên một nếp sống văn hoá Công giáo vừa phù hợp
với những đòi hỏi của Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô lại
vừa đáp ứng với những nhu cầu của con người thời nay.
Ðây
là công việc lớn lao đòi hỏi sự cộng tác mật thiết
của các nhà thần học, triết gia, các nhà văn hoá, giáo
dục cũng như các nhà chuyên môn khác. Các nhà văn hoá
giới thiệu bản sắc của nền văn hoá dân tộc mà chúng ta
có thể tìm thấy một số nét khái quát trong những công
trình nghiên cứu của các nhà chuyên môn như Trần Ngọc
Thêm (x. Tìm về Bản sắc Văn hoá Việt Nam, NXB TP. Saigòn,
xuất bản lần 4, 2004), Toan Ánh (x. Bộ Nếp Cũ, NXB TP. Saigòn, 1992), Lê Văn Chưởng (x. Cơ sở Văn hoá Việt Nam, NXB
Trẻ, TP. Saigòn, 1999), Cao Xuân Hạo (x. Chữ Việt, Văn Việt,
Người Việt, NXB Trẻ, TP. Saigòn, 2001), Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh
Hứa, Nguyễn Quang Vinh (x. Văn hoá Dân gian người Việt ở Nam
bộ, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992)...
Những
đặc điểm trong văn hoá nhận thức, văn hoá tổ chức
đời sống cá nhân và tập thể, văn hoá ứng xử với
môi trường tự nhiên và xã hội, văn hoá giáo dục thẩm
mỹ sẽ được các nhà thần học, triết học và văn hoá
Công giáo tìm ra những điểm tốt đẹp phù hợp với Tin
Mừng để có thể hội nhập với nền nhân bản Kitô giáo,
cũng như tìm ra những điểm yếu kém cần bổ sung hay sai trái
hoặc đi ngược với Tin Mừng để loại trừ. Ðiểm quan
trọng là các nhà giáo dục cần phối hợp với các nhà
văn hoá và thần học để biến những suy tư, nhận thức
thành những bài học cụ thể và áp dụng vào đời sống
Kitô hữu. Những bài học này trở thành những kỹ năng
sống để chuyển giao cho những thế hệ tiếp theo.
Nếu
nếp sống văn hoá Công giáo thời xưa giới thiệu Thiên
Chúa như Người Cha Tối Cao (Thượng phụ) so với vua chúa là
người cha ở giữa (Trung phụ) và người cha trong gia đình
ở bậc dưới (Hạ phụ) trong nhận thức "Tam Phụ"
của linh mục Ðắc Lộ trong Phép giảng Tám ngày để bảo vệ
nhân phẩm trong xã hội theo quân chủ chuyên chế độc tài,
thì trong xã hội dân chủ ngày nay lại cần phải tìm ra một
hình ảnh người cha khác gần gũi hơn, thiết thực hơn. Nếu
quan niệm của người xưa về các mối quan hệ với trời,
với đất, với người (Tam tài: thiên-địa-nhân) còn yếu
kém và thiếu sót, nền văn hoá Công giáo cần phải giới
thiệu cho con người thời nay một cái nhìn đầy đủ hơn.
Trời không còn là một năng lực mơ hồ nhưng là một ngôi
vị thật sự, nguồn của chân thiện mỹ, của sự sống vĩnh
hằng và hạnh phúc vô biên; còn người không phải chỉ là
anh em ở khắp năm châu mà còn là những con người có
mặt trong vũ trụ; và đất, hay vạn vật, không phải là
những thụ tạo vô tri vô giác nhưng là những đứa em bé
nhỏ được Người Cha Tạo Hoá giao cho con người săn sóc,
quản lý, yêu thương. Có thái độ như thế, người ta mới
có thể nói cho gió yên biển lặng, bánh cá hoá nhiều như
Ðức Giêsu đã làm thuở trước và nhiều vị thánh nhân
vẫn còn thực hiện thời nay.
Câu
hỏi đặt ra cho chúng ta bây giờ là chúng ta sẽ phải chọn
nền văn hoá nào. Mỗi dân tộc đều có những nét đặc
sắc trong nền văn hoá của mình. Các dân tộc làm nông
nghiệp lúa nước như ở vùng Ðông Nam Á chúng ta có đặc
điểm "trọng văn, trọng đức, trọng tình, trọng nghĩa,
trọng nữ", trong khi nền văn hoá kỹ thuật Tây Phương
của các dân tộc du mục thời xưa lại có những đặc điểm
"trọng võ, trọng tài, trọng lý, trọng vật, trọng
nam". Nền văn hoá Công giáo mà chúng ta muốn xây dựng
cho người Công giáo Việt Nam, và qua đó cho dân tộc Việt
Nam, là một nền văn hoá nhân bản toàn diện với các mối
tương quan đầy đủ của con người mà Giáo hội Công giáo
đã giới thiệu qua Công đồng Vatican II (1962-1965) và Học
thuyết Xã hội của mình (2004) để người Công giáo trở
thành những con người văn võ cao siêu, lý tình hoà hợp,
tài đức vẹn toàn. Ðó không phải là một lý tưởng xa
vời, tự mãn của người Công giáo nhưng là một mục tiêu
phải tiến tới để trở thành hình ảnh sống động của
Ðức Kitô, con người hoàn hảo, mà Người Cha Tạo Hoá
muốn cho tất cả con cái mình đạt được khi ban Con Một của
Ngài cho chúng ta (x. Ga 3,16-17).
Kết
Luận
Khi
trình bày công cuộc truyền giáo và hiệu quả truyền giáo
ở Việt Nam và Hàn Quốc trong một vài thời điểm lịch sử,
chúng tôi chỉ muốn nêu lên tầm quan trọng của văn hoá trong
công cuộc loan báo Tin Mừng để mời gọi mỗi tín hữu Việt
Nam cùng tham gia xây dựng nền văn hoá mới. Nếu người tín
hữu Kitô giáo Hàn Quốc đã có thể biến đổi nhanh chóng
đất nước chậm tiến, nghèo nàn của mình trở thành một
nước phát triển, có nền kinh tế giàu mạnh, nhờ sự góp
phần lớn lao của nền văn hoá Công giáo, thì người tín
hữu Việt Nam có quyền hy vọng mình cũng có thể làm cho
đất nước Việt Nam phát triển, dân tộc hùng mạnh nếu
cùng nhau xây dựng và thể hiện nền văn hoá mới mẻ và
toàn diện qua đời sống gắn bó với Tin Mừng của Ðức
Giêsu Kitô.
Truyền
Giáo Là Kể Chuyện Chúa Giêsu
Nhập
Ðề
Tôi
rất vinh dự được tham dự Hội thảo Loan báo Tin Mừng của
Ban Loan báo Tin Mừng thuộc Giáo phận Xuân Lộc với đề tài
"Kể chuyện về Chúa Giêsu". Sau khi Ðại hội Truyền
giáo của các nước châu Á được tổ chức tại Chiang Mai,
Thái Lan, vào tháng 10-2006, nhiều người xác tín rằng:
"Truyền giáo chính là kể lại câu chuyện về Ðức Giêsu
như các Tông đồ xưa".
Tuy
nhiên, muốn kể được câu chuyện này, bản thân người kể
phải gặp được Ðức Giêsu, "phải cùng ăn cùng uống
với Người" như các Tông đồ (Cv 10,41), như hai môn đệ
trên đường đi về Emmaus (x. Lc 24,30-35), phải tai nghe, mắt
thấy, tay chạm đến được Ngôi Lời sự sống như Gioan (x. 1
Ga 1,1), hay phải xỏ ngón tay và bàn tay vào những vết thương
của Ðức Giêsu như Tôma (x. Ga 20,24-29). Nếu không, chúng ta
không thể làm chứng nhân của Ðức Giêsu (x. Cv 2,32) vì
người làm chứng phải là người có mặt trong biến cố.
Thật ra, để là người tín hữu "bình thường", có
lẽ ta không cần phải tận mắt thấy và gặp gỡ Ðấng Phục
Sinh; nhưng để trở thành nhà truyền giáo đích thực, trở
thành chứng nhân của Ðấng Phục Sinh, Ðức Giêsu muốn
chúng ta gặp Người và Người sẵn sàng hiện ra với chúng
ta như với các môn đệ và tông đồ xưa.
Vấn
đề ở chỗ:
-
Làm
sao có thể gặp được Ðức Giêsu Phục Sinh?
-
Gặp
được Người rồi nhà truyền giáo sẽ biến đổi ra sao?
-
Cuối
cùng, nhà truyền giáo kể lại chuyện Ðức Giêsu như thế
nào?
Trong
câu chuyện về Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta sẽ chia sẻ những
kinh nghiệm gặp gỡ Người dựa trên các bản văn Tin Mừng
để soi sáng cho sứ mạng làm chứng cho Ðấng Phục Sinh.
1.
Làm sao có thể gặp được Ðức Giêsu Phục Sinh?
Ðoạn
Tin Mừng Ga 20,1-18 giới thiệu cho chúng ta câu trả lời làm
sao có thể gặp được Ðức Giêsu qua hình ảnh 3 môn đệ
Phêrô, Gioan và Maria Magđalena. Ba môn đệ này tượng trưng
cho mỗi người chúng ta trong các tình trạng khác nhau của
đời sống.
Cả
ba đều được tình yêu đối với Ðức Giêsu thúc đẩy và
đã diễn tả tình yêu ấy qua ba hành động tiêu biểu là thao
thức - chạy tới - dừng lại.
1.1.
Hành động đầu tiên của các môn đệ yêu Ðức Giêsu là
thao thức
Họ
thao thức vì những bất công mà Ðức Giêsu phải chịu:
Người chỉ rao giảng Lời Chúa, làm phép lạ chữa lành cho
nhiều người nhưng lại bị chính con người lên án và giết
chết một cách đau đớn và nhục nhã. Họ thao thức vì thân
xác Ðức Giêsu mới chỉ được tẩm liệm sơ sài. Họ mong
chóng hết ngày nghỉ lễ Sabbat để mang dầu, thuốc thơm xức
cho xác thân Người.
Môn
đệ đích thực của Ðức Giêsu luôn phải là người biết
thao thức trong khi người khác có thể ngủ quên. Nhiều
người đang ngủ quên trong thành công, trong chiến thắng của
mình. Chẳng hạn như người ta hãnh diện vì Giáo hội Việt Nam
(GHVN) đang có 6 triệu người Công giáo, Thánh lễ Chúa Nhật
lúc nào cũng đông nghẹt tín hữu trong một số nhà thờ,
có nhiều ơn gọi linh mục, tu sĩ đến nỗi các dòng nước
ngoài phải đến chiêu mộ ơn gọi ở Việt Nam, tín hữu Việt
Nam rất kính trọng các giám mục và các linh mục...
Nhưng
hình như người ta chưa thao thức tìm hiểu tại sao từ 120 năm
nay, Giáo Hội Việt Nam vẫn chưa gia tăng được 1% dân số Công giáo so với
số dân trong nước, dù có hàng chục ngàn linh mục, tu sĩ
và hàng trăm ngàn đoàn viên của các hiệp hội Công giáo
Tiến hành. Nhiều dòng tu bây giờ rất e dè khi nhận những
thanh niên nam nữ đến xin tìm hiểu ơn gọi vì khám phá ra
những động lực không trong sáng nơi nhiều người dự tu
như chỉ để thoát cảnh nghèo khó, chỉ muốn được đi học
đại học hay du học nước ngoài. Còn những tín hữu dù có
dự lễ đông đảo nhưng thực sự đã có niềm xác tín như
thế nào về Ðức Giêsu?
Hơn
nữa, nhà truyền giáo có thao thức về thảm cảnh xã hội
Việt Nam với cả chục triệu người đang sống nghèo khổ,
chạy ăn từng bữa, hơn 5 triệu người khuyết tật, cả chục
triệu người uống rượu và nghiện rượu gây nên những
đổ vỡ trong gia đình, cả triệu bào thai bị bỏ đi mỗi năm,
hơn 300,000 người nhiễm HIV/AIDS và 200,000 người nghiện ma tuý
đang bị kỳ thị nặng nề trong xã hội, cả trăm ngàn cô gái
sống tủi nhục vì phải bán rẻ thân xác mỗi ngày như món
hàng giải trí. Ðó là những Ðức Kitô bị bỏ rơi đang cần
được nhà truyền giáo thao thức kiếm tìm ở những nơi con
người xa lánh như những nấm mộ trong nghĩa trang của cuộc
đời.
1.2.
Hành động thứ hai của các môn đệ yêu Ðức Giêsu là
chạy tới
Các
môn đệ chạy mỗi người một kiểu theo mức độ thao thức
của mình nhưng đều nhắm đến đích điểm là ngôi mộ chôn
xác Ðức Giêsu, dù họ biết đến đó là hết sức nguy
hiểm. Giêsu là tên tử tội được binh lính canh phòng cẩn
mật với ấn niêm phong của quan tổng trấn Philatô. Nếu xác
bị mất mà họ chạy đến mộ thì họ sẽ bị nghi ngờ, bị bắt
giữ và có thể bị kết án nặng nề.
Thế
nhưng tình yêu đối với Giêsu đã khiến họ bất chấp tất
cả. Ðó có vẻ là một tình yêu mù quáng, không còn tỉnh
táo, khôn ngoan! Tại sao họ lại làm như thế sau khi đã bỏ
mặc Giêsu chịu chết? Có thể vì Phêrô nhớ mãi lời tiên
báo của Ðức Giêsu khi ông chối Người ba lần? Có thể vì
Gioan đã cảm nhận được tình yêu của Ðức Giêsu khi
đứng dưới chân thập giá? Có thể vì Maria Magđalena đã
cảm nhận được tình yêu của Ðức Giêsu khi đổ dầu thơm
quý giá xức chân Người (x. Ga 12,1-8)? Có thể vì cả ba đã
thấy tận mắt trời đất tối sầm lại khi Ðức Giêsu hấp
hối trên thập giá hay nghe kể lại việc màn trong đền thờ
xé ra làm đôi trong gian cực thánh (x. Mt 27,51), hay những
chuyện người chết hiện về sau khi Ðức Giêsu gục đầu tắt
thở (x. Mt 27,52-53)?
Nhưng
dù sao bây giờ họ chỉ còn biết Giêsu, và tình yêu đối
với Người thúc đẩy họ chạy tới. Chạy là không đi
chậm rãi bình thường như mọi người. Kiểu chạy của
người môn đệ trong đời sống chính là làm việc năng
động hơn, học hành chăm chỉ hơn, giải trí thanh tao hơn, hy sinh
gian khổ hơn các người khác.
Người
tín hữu Việt Nam đã từng chạy trong dòng lịch sử dân tộc
để góp phần tích cực trong việc biến đất nước theo chế
độ quân chủ độc tài, đa thê, bất bình đẳng nam nữ và
lạc hậu với khoa học kỹ thuật trở thành một xã hội dân
chủ, hôn nhân một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng và
phát triển khoa học kỹ thuật trong vòng hơn 200 năm (từ
1651-1865). Nhưng rồi hình như hiện nay nhiều người không còn
muốn chạy nữa! Họ chỉ muốn đi đứng bình thường và ẩn
mình vào đám đông như mọi người vì quên đi sứ mạng loan
báo Tin Mừng mà chính Ðức Giêsu đã trao phó cho họ (x. Mc
16,15).
1.3.
Hành động thứ ba của các môn đệ yêu Ðức Giêsu là
dừng lại
Maria
Magđalena dù chạy đến mồ sớm nhất, nhưng chị biết dừng
lại ở cửa mộ chứ không vào trong và chạy về báo tin cho
người có trách nhiệm. Gioan cũng thế, dù chạy nhanh hơn
Phêrô nhưng cũng đã dừng lại nhường quyền thẩm định
biến cố cho Phêrô.
Dừng
lại như Maria Magđalena là biết nhận ra vai trò của mình để
phối hợp hành động với người khác thay vì đòi quyền ưu
tiên của người đến trước hay hành động độc lập chẳng
cần biết đến ai. Truyền giáo dù là hành động của một
cá nhân nhưng luôn mang tính cách cộng đồng vì tự bản
chất là hành động của Giáo Hội Ðức Kitô.
Dừng
lại như Gioan là biết tôn trọng quyền bính và trách nhiệm
của Phêrô, sau khi đã phối hợp hành động bằng cách chạy
chung với nhau và vẫn chạy theo sức riêng mình. Truyền giáo
không bao giờ là một hành động bắt chước theo một khuôn
mẫu cứng nhắc, xoá bỏ các sáng kiến cá nhân, nhưng mời
gọi tất cả sử dụng mọi khả năng và phương tiện mình có
để phục vụ Ðức Kitô theo những ân huệ đa dạng của
Thánh Thần.
Công
cuộc loan báo Tin Mừng ở Việt Nam và cả ở Giáo Hội toàn
cầu chưa đạt kết quả như lòng mong ước một phần vì
người tín hữu chúng ta ngày nay chưa biết dừng lại để
phối hợp hành động và kiên nhẫn chờ đợi nhau như các
môn đệ xưa. Chúng ta thường đòi quyền ưu tiên vì đã
phải mất công chờ đợi xếp hàng, ngay cả trong việc xưng
tội, lên rước lễ cũng như trong các công tác xã hội
khác. Chúng ta không muốn người khác qua mặt chúng ta, giỏi
hơn, thông minh hơn, đạo đức hơn, nổi tiếng hơn ta. Nhiều
hội dòng quốc tế có sáng kiến truyền giáo nhưng lại không
chấp nhận phối hợp chung với giáo hội địa phương. Nhiều
cơ sở bác ái xã hội như trường học, bệnh viện, nhà
dưỡng lão của các dòng tu lại cạnh tranh kém lành mạnh
với nhau. Bài học khiêm tốn, nhường nhịn nhau vẫn cần
thiết cho Kitô hữu thuộc bất cứ thời đại nào.
1.4.
Kết quả cho người yêu nhiều nhất là gặp được Ðấng
Phục Sinh
Tuỳ
theo mức độ cao thấp của tình yêu mà các môn đệ cảm
nhận được Ðức Giêsu Phục Sinh một cách khác nhau.
Phêrô
cảm nhận chậm hơn cả, dù sau đó Ðức Giêsu vẫn hiện ra
với ngài (x. Lc 24,34), có lẽ vì ngài đã thao thức ít nhất,
chạy chậm nhất và chưa dừng lại để nhường bước cho ai.
Gioan cảm nhận nhanh hơn Phêrô, ngài "đã tin" (Ga 20,8)
dù chỉ thấy khăn liệm và băng vải được xếp gọn, có
lẽ vì ngài đã thao thức nhiều hơn, chạy nhanh hơn và
nhường bước cho Phêrô.
Maria
Magđalena cảm nhận đặc biệt nhất. Trong khi chị tưởng mình
đã đánh mất cả thân xác bất động thì lại được ôm
Ðức Giêsu sống động trong vòng tay (x. Mt 28,9), có lẽ vì chị
đã thao thức nhiều hơn cả, chạy đến mộ sớm nhất và
dừng lại nhường bước cho cả hai Tông đồ Phêrô và
Gioan.
Ðiểm
cơ bản mà chúng ta cần trắc nghiệm là tình yêu đối với
Ðức Giêsu của mỗi người chúng ta đang ở mức độ nào:
cao hay thấp? Tình yêu ấy có được diễn tả thành những
hành động cụ thể như thao thức, chạy tới và dừng lại
chưa? Tình yêu ấy có đủ mạnh mẽ không cần so sánh với
bất cứ ai để chỉ tập trung vào Ðức Giêsu? Chúng ta có
cầu xin Cha Trên Trời đổ tình yêu vào lòng chúng ta nhờ
Thánh Thần Ngài ban cho ta? (x. Rm 5,5).
1.5.
Kể chuyện Chúa Giêsu
Tôi
xin chia sẻ câu chuyện về nỗi thao thức về Chúa Giêsu. Cách
đây khoảng 10 năm, ở TP. Saigòn có hàng chục ngàn người đang
sống trong đau khổ vì bị ma tuý kiềm chế, chúng tôi muốn
cứu giúp họ nhưng không biết phải làm thế nào. Tôi tìm
đến Bác sĩ (BS) Trương Thìn, khi ấy là Viện trưởng Viện Y
Dược học Dân tộc, ở số 273 Nguyễn Văn Trỗi, TP. Saigòn, để
xin Bác sĩ giúp cho những kinh nghiệm về ma tuý và cách chữa trị
cơn nghiện vì Bác sĩ đã 26 năm hoạt động trong công tác này. Sau
nhiều lần từ chối, mãi đến 6-8-2000, Bác sĩ mới nhận lời gặp
chúng tôi. Hôm đó tôi đi chung với Bác sĩ Lan Hải, học trò
của Bác sĩ Trương Thìn, và nữ tu Hồng Quế, dòng Ðaminh Tam Hiệp.
Khi
gặp chúng tôi, Bác sĩ nói ngay: "Tôi chỉ có thể tiếp linh
mục được 15 phút thôi vì mấy tháng nay tôi đau bệnh lắm.
Cai nghiện ma tuý là công việc khó khăn, tôi khuyên linh mục
đừng tham dự vào". Bác sĩ tiếp chúng tôi mà cứ ho sụ
sụ, nước mũi chảy liên tục. Tôi liền xin Bác sĩ cho phép tôi
cầu nguyện cho ông một chút. Có lẽ lần đầu tiên Bác sĩ nghe
thấy một đề nghị như vậy, ông ngạc nhiên nhìn tôi, rồi
nói: "Linh mục cứ tự nhiên". Tôi đứng đằng sau
Bác sĩ đọc kinh Chúa Thánh Thần, Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh. Khi
vừa dứt lời kinh, Bác sĩ ngước lên hỏi: "Linh mục vừa
mới làm gì cho tôi?". Tôi thưa với Bác sĩ là tôi không
làm gì cả, tôi chỉ cầu nguyện xin Thiên Chúa ban sức mạnh
cho Bác sĩ và chuyển một phần sức khoẻ của tôi cho Bác sĩ
bởi vì Bác sĩ cần sức khoẻ để phục vụ bệnh nhân hơn
tôi. Bác sĩ nói với
tôi rằng: "Thưa linh mục, tôi là một Bác sĩ Tây y nhưng cũng
chuyên về Ðông y, tôi hiểu cơ thể của tôi lắm. Huyệt
đạo trên đỉnh đầu tôi từ mấy tháng nay bị tắc, bây
giờ nó được thông rồi".
Rồi,
Bác sĩ dường như quên tôi là linh mục, ông nói: "Này, Sơn
ơi, đi với mình!" và dẫn chúng tôi đi thăm các cơ
sở. Ðến khu vực dành cho người nghiện ma tuý, hồi đó
gọi là Khoa Lạm dụng Thuốc, Bác sĩ tự tay châm cứu cắt cơn cho
chúng tôi xem. Sau đó dẫn chúng tôi lên phòng riêng lấy
đàn guitar ra đánh hết bài này đến bài khác và lấy bút
vẽ ra vẽ tặng cho chúng tôi các bức hoạ. Ðồng hồ lúc
đó chỉ 12g15, Bác sĩ đã tiếp chúng tôi hơn 3 giờ!
Qua
sự kiện trên, tôi cảm nghiệm như Chúa đang mời gọi chúng
tôi hoạt động trong lĩnh vực ma tuý, dù Bác sĩ đã nhắc nhở
đừng lao mình vào lĩnh vực này. Ðức Giêsu đã cứu
chữa nhiều người nghiện trong suốt 8 năm qua. Bác sĩ Trương Thìn
đã tận mắt thấy các em hồi phục và Bác sĩ đã mời chúng
tôi mở 6 khoá Phục Sinh ở Viện Y Dược học Dân tộc.
Các
bạn thân mến, nhà truyền giáo chúng ta một khi đã thao
thức về Ðức Giêsu bị bỏ rơi, chúng ta sẽ thấy tác động
của Chúa Giêsu để Người biến đổi chúng ta, chuyển thông
cho chúng ta sức mạnh, tình yêu và cả quyền năng của
Người để chúng ta có đủ sức phục vụ anh chị em mình.
2.
Gặp được Ðức Giêsu, nhà truyền giáo sẽ biến đổi ra
sao?
Các
đoạn Tin Mừng theo Luca 24,35-48 và Gioan 20,19-31 mô tả cho chúng
ta tâm trạng của các Tông đồ trước và sau khi gặp Ðức
Kitô Phục Sinh. Trước đó họ buồn rầu, lo lắng, sợ hãi,
chao đảo vì không tìm được ý nghĩa đời sống, suy nhược
và mất hết nhuệ khí. Sau khi gặp được Người, họ tràn
đầy niềm vui, bình an, khôn ngoan, và can đảm làm chứng cho
Người, ý thức được sứ mạng Chúa trao và tràn đầy
ân sủng Thánh Thần. Ðây có lẽ cũng là khuôn mẫu của
nhà truyền giáo ngày nay.
2.1.
Tràn đầy niềm vui
Trước
hết, họ là những con người vui tươi. Họ vui bởi vì đã
giải thích được cái chết, thập giá và đau khổ trong cuộc
đời Chúa Giêsu, rồi từ đó họ cũng hiểu ra thập giá,
đau khổ, thất bại trong cuộc đời mình. Người chịu nhục
nhã, đau đớn không phải vì quan Philatô hèn nhát, các
thượng tế thù hằn, dân chúng ngu muội nhưng chỉ vì Chúa Cha
đã muốn Con mình như thế để biểu lộ tình yêu cứu độ.
Ngày
nay, nhiều người cứ nghĩ rằng đời là bể khổ nên giữ
mãi thái độ bi quan. Người tín hữu chúng ta phải tràn
đầy niềm vui như tiếng Alleluia (Hãy vui lên!) vang lên mãi
trong mùa Phục Sinh. Chúng ta diễn tả niềm vui ấy trong nụ
cười, ánh mắt, lời nói, hành động tốt đẹp cho mọi
người, bất kể đó là ai. Chúng ta đi loan báo Tin Mừng mà
nét mặt lúc nào cũng buồn thảm, chán nản thì ai còn tin
vào Tin Mừng nữa! Trịnh Công Sơn có bài hát Mỗi ngày tôi
chọn một niềm vui. Người Công giáo không phải chỉ có một
niềm vui mà có nhiều niềm vui mỗi ngày. Khi hiểu được
Ðức Kitô đang ở với chúng ta, mặc dù đang đau bệnh,
thất bại, nghèo khó hay gặp đủ những thử thách nhưng
chúng ta vẫn tràn ngập niềm vui và hạnh phúc, vì hiểu
được giá trị của chúng trong sứ mạng loan báo Tin Mừng
cứu độ của mình.
2.2.
Bình an
Ðặc
tính thứ hai là bình an. Ðức Giêsu Phục Sinh luôn chào
"Bình an cho anh em" vì thấy các môn đệ đang bối rối,
lo lắng, bất an. Người ta thường nói đến stress, đến sự
căng thẳng trong công việc, trong đời sống gia đình hay ngoài
xã hội vì mỗi người một ý với những tham vọng và dục
vọng khác nhau. Thời đại hôm nay rất cần sự bình an của
Ðức Kitô.
Nhà
truyền giáo phải là người biết xây dựng hoà bình và
tràn ngập bình an. Bình an trong chính con người mình khi làm
chủ được tham vọng và dục vọng; bình an trong gia đình và
cộng đồng xã hội khi tất cả đều một lòng một ý giống
như các môn đệ thời xưa (x. Cv 2,44-46).
2.3.
Khôn ngoan
Ðặc
tính thứ ba là khôn ngoan: "Chúa Giêsu mở tâm trí cho
các môn đệ hiểu Kinh Thánh và hiểu về Người" (Lc
24,44-45). Muốn hiểu Ðức Kitô thì phải học về Người. Kitô
giáo của chúng ta đặt nền tảng trên Ðức Giêsu Kitô nhưng
môn Kitô học lại chưa được quan tâm đúng mức trong các
học viện và trong chính đời sống Kitô hữu.
Sau
những tranh cãi về bản tính con người và bản tính Thiên
Chúa nơi Ðức Giêsu dẫn đến các lạc giáo trong 5 thế kỷ
đầu của Giáo Hội, suốt 15 thế kỷ cho đến gần Công đồng
Vatican II, ít ai dám viết hay nói về Chúa Giêsu, trừ một
vài nhà thần học nổi tiếng như các Thánh Tiến sĩ Augustinô
hay Tôma Aquinô dòng Ðaminh. Tuy nhiên, một số điều quả
quyết của các vị thánh này về Ðức Giêsu không còn phù
hợp với thời đại chúng ta. Ðó là chưa kể những khuynh
hướng của các nhà thần học hiện đại muốn chối bỏ và
giải thích các phép lạ của Chúa Giêsu theo nghĩa tượng
trưng.
Sách
Giáo lý Hội Thánh Công giáo đã cố gắng sửa chữa các
sai sót đó (x. Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 470-474)
nhưng cho đến nay nhiều tín hữu chưa nắm vững những chân
lý về Ðức Giêsu vì không dành thời giờ học hỏi môn
Kitô học. Có biết rõ ràng, mạch lạc, sâu xa về Chúa
Giêsu Kitô, chúng ta mới trở thành khôn ngoan và làm
chứng cho Người. Chúng ta hãy dành nhiều giờ hơn để học
hỏi với Thần Chân Lý về Chúa Giêsu Kitô (x. Ga 14,17; 16,26).
2.4.
Can đảm làm chứng cho Ðức Kitô Phục Sinh
Các
Tông đồ trước đây sợ hãi nên đóng kín cửa, bây
giờ họ mở tung cửa, ra đứng ngoài công trường để làm
chứng cho Chúa Giêsu. "Chính anh em là chứng nhân về
những điều ấy" (Lc 24,48). Ði đâu chúng ta cũng cần
biểu lộ niềm vui, bình an, quyền năng, sự khôn ngoan của
Chúa Giêsu cho mọi người. Người Công giáo chúng ta phải
trở thành người khoẻ, đẹp, người thông minh, đạo đức,
thánh thiện, vì Chúa của chúng ta là nguồn của chân thiện
mỹ cơ mà!
Là
sinh viên đại học, tôi phải học giỏi hơn người khác vì
tôi học không phải chỉ bằng sức của tôi mà còn bằng
Thánh Thần, bằng sự soi sáng của Chúa Giêsu. Tôi phải
đẹp người, đẹp nết để biểu lộ Chúa Giêsu, người Tình
tuyệt vời của tôi. Người Công giáo chúng ta phải có
nhiều người khoẻ, đẹp, tài giỏi, nhiều nhà bác học chứ
không phải chỉ có nhiều thánh nhân! Muốn khoẻ, đẹp, khôn
ngoan, vui tươi, can đảm, đâu phải chỉ cầu nguyện và mơ
ước suông mà còn phải luyện tập các kỹ năng sống từ
cách ăn uống, ngủ nghỉ, làm việc, giải trí đến cách tu
thân, luyện đức, chúng ta mới biến chúng thành những gì
cụ thể, thực tế để giới thiệu Ðức Giêsu Kitô cho mọi
người. Chúng ta thật sự đang thiếu những kỹ năng sống
đặc biệt của người tín hữu Công giáo.
Với
Chúa Giêsu, nhà truyền giáo chúng ta phải phát ra một thứ
hào quang đặc biệt thu hút người khác như Chúa Giêsu xưa.
Tiến sĩ Barbara Ann Brennan, nhà khoa học năng lượng nguyên tử
của NASA, tác giả cuốn sách Hands of Light (Những bàn tay phát
sáng), đã gợi ý cho ta về vùng hào quang đó như những
hình ảnh trong sách này. Các bạn cũng có thể có kinh nghiệm
về phản ứng của những con chó khi thấy người bán thịt
chó đi ngang qua. Chúng sủa vang để báo động cho nhau vì
người đó phát ra một mùi đặc biệt. Nhà truyền giáo có
toả hào quang hay mùi vị hấp dẫn nhờ có Chúa ở trong mình
chưa vì Người hứa ở cùng chúng ta cho đến tận thế kia
mà! (x. Mt 28,20).
2.5.
Ðầy ơn Chúa Thánh Thần
Ðặc
tính thứ năm là tràn đầy ân sủng của Thánh Thần:
"Chúa Giêsu hiện ra, thổi hơi vào các môn đệ và nói:
"Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20,22). Có ân
sủng của Thánh Thần các Tông đồ đã làm phép lạ để
bảo đảm cho Lời Tin Mừng cứu độ (x. Cv 2,43; 4,16; 4,30; 5,12.
15-16...). Người bất toại được chữa lành đứng bên cạnh
Phêrô là bằng chứng sống động để cho lời rao giảng của
Phêrô được 5.000 người tin theo (x. Cv 3,1-4).
Chúa
Giêsu trao cho chúng ta sứ mạng đi khắp tứ phương thiên hạ
để loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo, ban biết bao
quyền năng của Thánh Thần để chúng ta chữa lành bệnh
nhân, xua trừ ma quỷ, nói được những tiếng mới lạ (x. Mc
16,15-20). Nhưng chúng ta lại nghĩ mình yếu đuối, tội lỗi nên
không thể làm được điều kỳ diệu nào. Mỗi người chúng
ta đều là chứng nhân của Chúa Giêsu, chúng ta được ban
Thánh Thần để làm chứng cho Người, vì thế chúng ta đừng
mang mặc cảm. Hãy vững tin vào Chúa Giêsu!
Muốn
nhận ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta phải biết hít thở Thần
Khí như các Tông đồ, nhất là như Mẹ Maria. Trong đời sống
tự nhiên, nhiều người chỉ lo ăn chứ ít ai lo uống, dù
nước cần cho sự sống hơn lương thực và hầu như không
để ý đến khí thở. Mỗi ngày trung bình người lớn cần
1,5kg lương thực, 3 đến 4 lít nước và hơn 10,000 lít không
khí. Ta có thể nhịn ăn 30 ngày mới chết, nhịn uống 3 ngày
nhưng nhịn thở chỉ được 5 phút. Nếu biết tăng cường mỗi
lần thở từ nửa lít hiện nay lên đến 1 hay 2 lít, đầu óc
ta sẽ sáng suốt, sức khoẻ ổn định, một số bệnh thuyên
giảm nhờ có nhiều khí chuyển đến nuôi sống các tế bào,
nhất là bộ não phát ra được nhiều lệnh cho các cơ quan
hoạt động.
Thần
Khí còn cần hơn nhiều cho đời sống tâm linh. Thở được
nhiều Thần Khí ta sẽ biến đổi dòng máu đen tội lỗi mỗi
ngày thành dòng máu đỏ tinh tuyền của Chúa Giêsu, sẽ
thông minh hơn, xinh đẹp hơn, thánh thiện hơn trước mặt
Thiên Chúa vì Thánh Thần là Thần Khí thánh hoá, là sức
mạnh, là sự sống, là chân lý, là tình yêu. Do đó, nhà
truyền giáo phải tập kỹ năng thở khí tự nhiên và khí
siêu nhiên mỗi ngày. Không biết các bạn đã biết các kỹ
năng đó chưa?
2.6.
Kể chuyện Chúa Giêsu
Tôi
muốn chia sẻ với các bạn câu chuyện về vị lương y Giêsu
khi tôi gặp được Người qua các bệnh nhân. Từ 20 năm qua,
tôi đã tiếp xúc với khoảng 10,000 lượt bệnh nhân và
đã thấy Người chữa lành nhiều bệnh nan y. Tuy nhiên có 1
khuôn mặt tôi nhớ mãi vì gắn liền với cuốn Sứ Ðiệp
Loài Hoa. Vào năm 1992, tôi viết tập sách nhỏ này cho các
bạn trẻ. Cuốn sách có vẻ hấp dẫn nên người ta in lậu
khá nhiều. Ðức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình đã 3
lần viết đơn xin tái bản nhưng không nhận được thư trả
lời của Sở Văn hoá và Thông tin TP. Saigòn.
Hồi
đó tôi có quen bà Dược sĩ Nguyễn Thị Lâu. Ai học ngành
Dược đều biết đến vị giáo sư tài ba nhưng hết sức
nghiêm túc này vì bà đào tạo 35 khoá dược. Cô Lâu bị
bệnh tim nên đến tìm và xin tôi cầu nguyện. Sau đó bà
mời tôi đến thăm người em rể của bà. Ngày 12-6-1994, tôi
đến căn nhà ở đường Tú Xương và gặp một bác khoảng
64-65 tuổi đi lại rất khó khăn vì bị tai biến mạch máu não.
Tôi
nói chuyện với ông về cách thở Thần Khí. Trước khi ra
về, ông tha thiết mời tôi trở lại vào sáng ngày hôm sau.
Ðúng
hẹn tôi trở lại, vừa bóp tay vừa cầu nguyện cho ông
chừng 15-20 phút rồi nói:
-
Bác
thử giơ tay lên xem!
Ông
ngạc nhiên nhìn tôi rồi nói: "Linh mục không biết à, tay
tôi đã chết từ 4 năm nay rồi. Tôi đã đi khắp các
nước xã hội chủ nghĩa anh em và một vài nước tư bản,
bác sĩ nào cũng nói cánh tay tôi chết rồi!".
-
Nhưng
xin bác cứ thử xem, hãy giơ tay cao lên!
Ông
nhúc nhích mấy đầu ngón tay.
Tôi
nói tiếp: "Bác giơ cao lên! - Cao hơn nữa - Nữa - Như
thế!".
Ông
giơ tay cao và xoay tròn cánh tay mấy lần. Mắt mở to vì ngạc
nhiên, rồi nói: "Thưa linh mục, tôi có thể làm gì cho
linh mục?".
-
Thưa
ông, tôi đến đây không xin gì cả. Chỉ để cầu nguyện cho
ông thôi.
Bà
Lâu đứng gần đó nói chen vào: "Linh mục Sơn lo in sách
cho Toà Tổng Giám mục mà mấy năm nay chẳng được phép in
cuốn nào, ngay cả cuốn Sứ điệp Loài Hoa của linh mục cũng
không được phép tái bản".
-
Chị
có cuốn Sứ điệp ấy ở đây không?
-
Ðây, tôi luôn giữ nó trong ví. Bà Lâu nói.
Ông
cầm lấy cuốn sách nhỏ bé, lật đi lật lại rồi đến bàn
làm việc nói chuyện bằng điện thoại một lúc với ông
Phó Bí thư Thành Uỷ và ông Bộ Trưởng Văn hoá Thông tin.
Sau
đó ông nói với tôi: "Xin linh mục an tâm. Chừng một tháng
nữa, khi tôi từ Canada trở về, tôi hy vọng các sách xin
phép sẽ được chấp thuận".
Quả
thật, sau đó Toà Tổng Giám Mục TP. Saigòn đã nhận được giấy phép cho
tất cả 32 cuốn sách, trong đó có cả cuốn Sứ điệp Loài
Hoa.
Ðây
là một trong số những câu chuyện mà tôi muốn kể cho các
bạn, để chỉ muốn nói lên một điều: một khi gặp được
Ðức Giêsu, ta trở nên một con người mới (x. Ep 2,15; 4,24;
Cl 3,10), vui tươi, bình an, khôn ngoan, can đảm và tràn đầy
Thánh Thần. Có như thế, nhà truyền giáo mới trở thành con
người hữu ích thật sự cho nhân loại hôm nay.
3.
Nhà truyền giáo kể chuyện Chúa Giêsu như thế nào?
Vấn
đề thứ ba chúng ta cùng chia sẻ là cách kể câu chuyện về
Chúa Giêsu. Có người kể chuyện Giêsu như kể chuyện cổ
tích Tấm Cám chỉ để ru ngủ trẻ thơ, đưa chúng vào một
thiên đàng tưởng tượng trong khi Ðức Giêsu là chuyện
thật, người thật, việc thật (x. Hồng y Paul Poupard, Sứ điệp
trong Ðại hội Truyền giáo Châu Á, Văn kiện, tr. 54). Có
người lại kể chuyện Giêsu như kể chuyện về anh hùng lịch
sử Trần Hưng Ðạo hay về Tổng thống đương nhiệm Obama của
Hoa Kỳ, dù chính người kể chẳng gặp và người nghe chẳng
thấy, trong khi Ðức Giêsu là một người đang sống hôm qua,
hôm nay và mãi mãi đến muôn đời, Người ở giữa chúng
ta và ở trong chúng ta. Có người lại muốn kể câu chuyện
về Ðức Giêsu với cử chỉ cường điệu và lời lẽ trang
trọng như một diễn viên hay một nhà hùng biện trước đám
đông để mong thuyết phục quần chúng và đón nhận những
tràng pháo tay tán thưởng cho mình trong khi Giêsu chỉ muốn ta
dùng những lời lẽ đơn thành để tạo sự hiệp thông
giữa người kể và người nghe. Vậy chúng ta phải nói gì
và nói như thế nào về Chúa Giêsu?
Có
lẽ ta sẽ tìm thấy câu trả lời qua chính lời dạy của Chúa
Giêsu: "Lúc đó Thánh Thần sẽ cho anh em biết phải nói
gì và nói như thế nào" (x. Lc 12,11-12; Mc 13,11), cũng như
qua những bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô và các
Tông đồ sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống được ghi lại
trong sách Công vụ Tông đồ: 1,14-36; 2,11-26; 4,8-12; 13,16-42;
22,1-21; 26,1-23. Chúng ta có thể tóm tắt mấy điểm cơ bản về
cách kể chuyện Giêsu sau đây:
3.1.
Tập trung vào Chúa Giêsu
Các
Tông đồ chỉ nói về Chúa Giêsu, về những gì liên quan
đến Chúa Giêsu, về kinh nghiệm của mình với Chúa Giêsu.
Họ không lo đi tìm kiến thức của người đời, cũng không
quan tâm đến người nghe vui hay buồn khi nghe chuyện Giêsu. Họ
kể lại trung thực tất cả những gì Thánh Thần thôi thúc
họ nói, kể cả những kinh nghiệm đau thương như của Phêrô
khi chối bỏ Giêsu, hay của Phaolô khi bách hại Kitô hữu.
Nhiều
anh em linh mục chúng tôi rất lo khi đến ngày Chủ Nhật vì
không biết chuẩn bị bài giảng thế nào cho tín hữu có thể
đón nhận và sống Lời Chúa. Linh mục càng ở lâu trong
một xứ đạo với các bài Kinh Thánh trở đi trở lại 3
năm một lần càng không biết giảng giải ra sao. Không lẽ
năm nào cũng lấy lại bài giảng cũ?! Có linh mục vào mạng
Internet, lấy một loạt các Bài giảng Chủ nhật của nhiều
tác giả rồi tái chế bằng cách cắt dán mỗi bài một
đoạn thành bài giảng của mình. Có người lại đi tìm các
câu chuyện ngắn có ý nghĩa ở trong các sách báo để minh
hoạ cho đề tài muốn giảng. Người khác lại nghĩ đến Lời
Chúa là tin mừng, tin vui nên đưa cả những chuyện tiếu lâm
vào để gây tiếng cười cho các thính giả và giờ giảng
lễ trở thành một cuộc tấu hài. Có linh mục nghĩ rằng cần
phải nói thật ngắn gọn, rõ ràng, bài giảng chỉ cần kéo
dài chừng 5-7 phút, thánh lễ càng ngắn càng thu hút được
nhiều tín hữu dự lễ nhưng thực tế lại dạy chúng tôi
rằng càng thu ngắn bài giảng càng làm mất đi tính cách hấp
dẫn kỳ lạ trong câu chuyện Giêsu!
Chúng
ta không có chất liệu để nói về Ðức Giêsu trước hết
chỉ vì chúng ta chưa gặp được Người nên chưa xác tín
rằng Người đang sống và đang kể chuyện của Người qua
lời lẽ của ta. Ta chỉ mới nói được lời của con người
chứ chưa nói được lời của Thiên Chúa, nên câu chuyện
không có sức biến đổi và thần hoá người nghe. Tại sao?
Tại vì ta mới chỉ thở được khí tự nhiên nên lời ta
chỉ là những âm thanh vang đến những đôi tai người phàm.
Khi thở được Thần Khí, lời loan báo Tin Mừng của ta mới
trở thành Lời Chúa và có sức cứu độ muôn loài.
3.2.
Kể bằng ngôn ngữ tình yêu
Câu
chuyện Giêsu là một chuyện tình nên phải kể bằng ngôn
ngữ của tình yêu. Ðó là tiếng nói của những gì mang lại
tích cực, tốt đẹp, hy vọng cho mọi người mọi vật; tiếng
nói của sự thật và sự sống, của niềm tin và hy vọng,
của thánh thiện và ân sủng, của tự do, công lý và hoà
bình. Vì tình yêu là tất cả những thứ đó và còn hơn
thế nữa.
Thiên
Chúa là tình yêu, và để thể hiện mình, Thiên Chúa đã sai
Con Một của Ngài là Ngôi Lời đến với chúng ta (x. Ga 3,16),
làm người để cứu độ chúng ta. Người con đó là Chúa
Giêsu. Khi kể về Chúa Giêsu, nhà truyền giáo phải bộc lộ
được tình yêu này trong ánh mắt, lời nói, nụ cười và
toàn thể con người như một chứng nhân của tình yêu, nhất
là thành những hành động cụ thể cho những con người yếu
kém, bị bỏ rơi, bị gạt ra ngoài lề xã hội hôm nay:
"Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi
nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng những việc
làm" (1 Ga 3,18). Ðức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã trình
bày cách kể chuyện này trong Thông điệp đầu tiên của
ngài: Deus Caritas est (Thiên Chúa là Tình Yêu).
Người
tín hữu ngày nay nói rất nhiều đến "bác ái", có
nghĩa là "yêu rộng", "yêu quảng đại" và
người đời càng nói nhiều hơn đến "tình yêu"
nhưng nhiều người lại không tìm được nội dung của điều
mình muốn nói. Chỉ có Chúa Giêsu là tình yêu cụ thể,
thiết thực của Thiên Chúa mới có thể giúp tất cả chúng
ta cảm nghiệm được giá trị cao cả của tình yêu và xây
dựng được một nền văn minh tình yêu thực sự cho thế
giới hôm nay.
3.3.
Kể bằng mọi mặt của đời sống
Khi
yêu nhau, người ta muốn diễn tả tình cảm không chỉ bằng
lời mà còn sử dụng mọi phương tiện vật chất cũng như
tinh thần để bộc lộ mình và liên kết với nhau. Những lần
trao gửi quà tặng, thư từ, nhắn tin qua mạng, diễn tả bằng
bài hát, lời thơ, tranh vẽ và cả những giây phút yên
lặng bên nhau hay nhớ về nhau đều là những cách kể chuyện
tình cho nhau nghe.
Nhà
truyền giáo ngày nay, tuỳ theo ân sủng Chúa ban, có thể kể
về Chúa Giêsu bằng nhiều cách thức. Nếu là thi sĩ, ta hãy
làm thơ về Giêsu. Là nhạc sĩ, ca sĩ, ta có thể sáng tác
và hát những bài hát về Giêsu, có thể cuốn hút hàng
trăm ngàn bạn trẻ vì ta sáng tác, ta hát bằng Thần Khí của
Thiên Chúa. Là nhà nghiên cứu, ta sẽ dùng tình yêu của
Giêsu để xua tan sự lãnh đạm cứng nhắc của vật chất và
khám phá ra muôn điều kỳ diệu trong thiên nhiên như Giêsu
đã từng ra lệnh cho gió yên, biển lặng, bánh cá hoá
nhiều# Như thế, người kể chuyện Giêsu không phải là lúc
nào cũng nhắc tên Giêsu trên môi miệng nhưng lại diễn tả
Người qua mọi lĩnh vực của đời sống vì Giêsu là tất
cả và ở trong muôn loài (x. Ga 1,3; 16; 1 Cr 13,12; 15,28).
3.4.
Kể qua Giáo Hội
Câu
chuyện Giêsu còn đang được tiếp tục kể qua Giáo Hội là
Nhiệm Thể Người (x. Hồng Y P. Poupard, Sứ điệp, Kể chuyện Giêsu
ở châu Á, FABC-Oe xuất bản, India, 2007, tr. 55). Ðức Giêsu
đã kêu gọi những ai Người muốn (x. Mt 10,1-42; Mc 3,13) và sai
họ đi khắp nơi, đến với muôn dân để kể lại câu chuyện
của Người (x. Mt 28,19tt; Mc 16,15tt; Sắc lệnh Ad Gentes, số 5). Vì
thế, câu chuyện Chúa Giêsu được tiếp tục kể qua hoạt
động truyền giáo của Giáo Hội. Tất cả anh chị em chúng ta
đang có mặt ở đây đều được mời gọi tham gia.
Tuy
nhiên, chúng ta đừng quên rằng, trước khi là câu chuyện
riêng tư của từng người thì Giêsu đã là câu chuyện của
một tập thể, một cộng đồng gồm những người tin yêu
Ðức Giêsu, đó là Giáo Hội, là thân thể mầu nhiệm của
Người. Vì thế, muốn kể cho rõ ràng, đúng đắn và sống
động, chúng ta được mời gọi cộng tác và liên kết với
nhau.
Ðức
cha Micae Hoàng Ðức Oanh với Uỷ ban Loan báo Tin Mừng đã tổ
chức Hội thảo về Truyền giáo từ ngày 23 đến 25-3-2009 tại
Sài Gòn, và đã thấy rằng cần phải có sự kết hợp hài
hoà cũng như phối hợp chặt chẽ giữa các uỷ ban khác nhau
của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam như: Uỷ ban Truyền thông, Bác ái Xã hội, Văn
hoá, Giáo lý Ðức tin, Linh mục - Chủng sinh, Tu sĩ... thì công
cuộc loan báo Tin Mừng mới đạt được kết quả tốt đẹp
(x. Ðc. Micae Hoàng Ðức Oanh, Thư gửi Ðức cha Phêrô Nguyễn
Văn Nhơn, ngày 16-4-2009).
3.5.
Kể chuyện Chúa Giêsu
Nói
đến Tin Mừng, đến Lời Chúa, thường chúng ta nghĩ ngay
đến cuốn Thánh Kinh, đến những câu văn, chữ viết trong
sách đó chứ ít khi nghĩ đến Ngôi Lời sống động mà mình
phải tìm gặp, yêu thương và giới thiệu cho người khác.
Tôi
nhớ cách đây hơn 10 năm, trong lần giảng tĩnh tâm hằng năm
cho các nữ tu dòng Nữ Vương Hoà Bình ở Buôn Ma Thuột, cha
sở Nhà thờ Chính toà mời tôi đến nói chuyện về việc
loan báo Tin Mừng cho hơn 100 giáo lý viên, gồm các chủng
sinh, nữ tu và một ít tín hữu giáo dân. Tôi đưa ra một
trường hợp:
-
Thí
dụ như các bạn gặp một người phụ nữ dân tộc thiểu số
đang cho con bú thì câu Tin Mừng nào thích hợp nhất để loan
báo trong trường hợp này?
Nhiều
cánh tay giơ lên, một tu sĩ trả lời:
-
Ðó
là câu: "Phúc cho dạ đã cưu mang Người và vú đã cho
Người bú" (Lc 11,27).
-
Các
bạn có đồng ý với câu trả lời này không?
-
Hầu
như không có ai phản đối hay đưa ra một câu nào khác.
-
Các
bạn thử tưởng tượng xem người phụ nữ đó nghĩ gì:
Ðột ngột gặp một người lạ đứng trước mặt mình và
nói một câu như thế, thì chỉ có thể là một người điên
khùng nào đó vừa ra từ Nhà thương Chợ Quán (Sài Gòn)
hay Nhà thương Biên Hoà mà thôi!
Vậy
mà nhiều người chúng ta thường loan báo Tin Mừng theo cách
đó. Có phải các giờ học Kinh Thánh với những kiểu chú
giải Lời Chúa khác nhau đã làm chúng ta quên mất Giêsu
là Ngôi Lời sống động?!
Trong
trường hợp này, tôi sẽ nói với người phụ nữ:
"Chị
ơi, chị bế cháu nằm ngửa như thế sẽ làm cháu bị ọc sữa
và vú chị bị đau. Chị nên bế cháu thẳng hơn và đừng áp
chặt bầu vú vào mặt cháu để cháu dễ thở". Ðó là
"Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô theo Antôn Nguyễn Ngọc
Sơn!".
Vâng,
các bạn đừng cười nhạo, cho tôi là phạm thượng, vì chỉ
có một Tin Mừng duy nhất của Ðức Giêsu, nhưng có hàng
triệu người viết và rao giảng khác nhau. Không phải chỉ theo
Matthêu, Marcô, Luca, Gioan mà còn theo Nguyễn Văn X, Trần Thị
Y...
Lời nào của chúng ta được Thần Khí Tình Yêu thúc đẩy
nói nhân danh Ðức Giêsu thì đều là Tin Mừng, đều mang
lại niềm vui, sức khoẻ, bình an và ơn cứu độ đến cho mọi
người. Thánh Gioan đã kết thúc Tin Mừng bằng một câu rất
hay cho trường hợp này: "Còn có nhiều điều khác Ðức
Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một thì tôi thiết
nghĩ cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết
ra" (Ga 21,25). Chúng ta đang tiếp tục trở thành tác giả
Tin Mừng, nhất là trở thành Tin Mừng sống động của Ðức
Kitô.
Kết
Luận
Câu
chuyện về Chúa Giêsu là một chuyện dài diễn ra trong suốt
đời sống của nhà truyền giáo mà chúng ta không thể kể
hết ở đây. Câu chuyện có lẽ vẫn còn tiếp tục cả ở
trên thiêng đàng, dù lúc ấy ta được nhìn tận mắt
Người Yêu tuyệt vời của mình! Ðiều chia sẻ với các bạn
hôm nay chỉ là một đoạn rất nhỏ để góp vào câu chuyện
của tất cả chúng ta, dù lời kể của tôi còn nhiều lúng
túng. Cầu chúc các bạn trở thành những người kể chuyện
tuyệt vời về Chúa Giêsu và cho Chúa Giêsu.
Lm.
Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Tháng
5-2009
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét