Viết bởi LM. Anthony Đinh Minh
Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 3 TN, Năm lẻ
Bài đọc: Heb 11:1-2, 8-19; Mk
4:35-41.
1/ Bài đọc I: 1 Đức
tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không
thấy.
2 Nhờ đức tin ấy, các tiền
nhân đã được Thiên Chúa chứng giám.
8 Nhờ đức tin, ông
Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận
làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu.
9 Nhờ đức tin, ông đã tới
cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông
I-sa-ác và ông Gia-cóp là những người đồng thừa kế cũng một lời hứa,
10 vì ông trông đợi một
thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng.
11 Nhờ đức tin, cả bà Sa-ra
vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã
cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín.
12 Vì thế, do một người duy
nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời
cát biển, không tài nào đếm được.
13 Tất cả các ngài đã chết,
lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng
từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều,
là lữ khách trên mặt đất.
14 Những người nói như vậy
cho thấy là họ đang đi tìm một quê hương.
15 Và nếu quả thật họ còn
nhớ tới quê hương mình đã bỏ ra đi, thì họ vẫn có cơ hội trở về.
16 Nhưng thực ra các ngài
mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi vậy, Thiên
Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì
Người đã chuẩn bị một thành cho các ngài.
17 Nhờ đức tin, khi bị thử
thách, ông Áp-ra-ham đã hiến tế I-sa-ác; dù đã nhận được lời hứa, ông vẫn hiến
tế người con một.
18 Về người con này, Thiên
Chúa đã phán bảo: Chính do I-xa-ác mà sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi.
19 Quả thật, ông Áp-ra-ham
nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận
lại người con ấy như là một biểu tượng.
2/ Phúc Âm: 35 Hôm ấy,
khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Chúng ta sang bờ bên kia
đi!"
36 Bỏ đám đông ở lại, các
ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng
theo Người.
37 Và một trận cuồng phong
nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
38 Trong khi đó, Đức Giê-su
đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy
và nói: "Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?"
39 Người thức dậy, ngăm đe
gió, và truyền cho biển: "Im đi! Câm đi!" Gió liền tắt, và biển lặng
như tờ.
40 Rồi Người bảo các ông:
"Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?"
41 Các ông hoảng sợ và nói
với nhau: "Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?"
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúng ta phải
tin những gì Thiên Chúa nói.
Tại sao chúng ta tin một điều là
thật? Thông thường có 3 lý do: (1) vì đã thấy; (2) vì cảm thấy hậu quả dù không
thấy; và (3), vì thế giá của người khác nói.
Các Bài Đọc hôm nay đều nhằm mục
đích thuyết phục con người tin vào những gì Thiên Chúa nói. Trong Bài Đọc I,
tác-giả Thư Do Thái đưa ra một lý do đơn giản tại sao các tiền nhân tin: vì đó
là lời của Thiên Chúa hứa. Ngài không bao giờ quên thực hiện những gì Ngài đã hứa.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trách các Tông-đồ yếu lòng tin khi các ông đã có
chính Ngài, Người có quyền trên sóng gió, cùng đồng hành.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Con người phải sống
niềm tin của mình.
1.1/ Định nghĩa của đức tin:
Theo tác giả: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho
những điều ta không thấy.” Định nghĩa này nhìn từ góc cạnh của những người đã
có đức tin. Thực vậy, để đạt được điều con người hy vọng là cuộc sống đời đời,
con người phải tin nơi Đức Kitô (Jn 6:39-40) và những gì Ngài mặc khải về Thiên
Chúa. Tuy con người chưa thấy Thiên Chúa và chưa đạt tới cuộc sống đời đời,
nhưng niềm tin của con người nơi Đức Kitô là một bằng chứng cho những thực tại
này. Ví dụ, khi nhìn thấy đức tin của các nhân chứng tử đạo, con người biết lý
do của những cái chết anh hùng này.
1.2/ Gương đức tin của các tiền
nhân: Họ là những người tuyệt đối tin tưởng vào lời Thiên Chúa hứa dù chưa nhìn
thấy hiệu quả, hay điều Thiên Chúa hứa không thể xảy ra theo cách thức của lòai
người. Tác-giả dẫn chứng 2 ví dụ:
(1) Tổ-phụ Abraham, cha của những
người tin: “Nhờ đức tin, ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một
nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi
đâu.” Để có thể rời bỏ quê cha đất tổ đến sống nơi đất lạ quê người, con người
phải được thúc đẩy bởi một lý do chính đáng; vì cuộc sống bấp bênh và nạn kỳ thị
chủng tộc mà họ sẽ phải đương đầu với. Lý do Abraham rời bỏ Urs đơn giản là vì
lời Thiên Chúa hứa, và ông đặt trọn niềm tin nơi Ngài.
Thiên Chúa không gọi Abraham từ
Urs tới một nơi định cư cố định, nhưng lang thang khắp nơi cho tới khi Thiên
Chúa cho ông một chỗ định cư vĩnh viễn không thuộc về thế giới này: “Nhờ đức
tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều
cũng như ông Isaac và ông Jacob là những người đồng thừa kế cũng một lời hứa,
vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng.”
(2) Sarah, vợ của Abraham: cũng
chứng tỏ đức tin của Bà nơi Thiên Chúa. Cả hai ông bà đều đã cao niên (90 tuổi)
mà vẫn chưa có con nối dõi tông đường. Cái tuổi này không thể có con theo cách
thức con người, nhưng Bà vẫn tin nơi Thiên Chúa, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là
Đấng trung tín. Ngài có thể làm cho “một người kể như chết rồi mà một dòng dõi
nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được, được sinh ra.”
1.3/ Đức tin được tinh luyện
trong thử thách đau thương:
(1) Vững tin dù đến chết vẫn
chưa thấy kết quả: Lời Thiên Chúa hứa sẽ ban đất làm gia sản và giòng dõi vô số
đã chưa được thực hiện khi Abraham còn sống ở đời này; nhưng ông vẫn một dạ vững
tin nơi Thiên Chúa. Lý do, ông coi mình “là khách ngoại kiều, là lữ khách trên
mặt đất, và mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi
vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các
ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành cho các ngài.”
(2) Vững mạnh trong thử thách:
Ngay cả khi đã được một người con nối dõi tông đường là Isaac, ông Abraham vẫn
sẵn sàng sát tế Isaac theo những gì Thiên Chúa dạy bảo, để chứng tỏ niềm tin của
ông nơi Ngài. Sở dĩ ông làm như thế vì ông tin Thiên Chúa có quyền năng cho người
chết trỗi dậy. Sau cùng, Thiên Chúa đã nhìn thấy niềm tin tưởng tuyệt đối của
ông, và Ngài đã ban cho ông người con ấy như là một biểu tượng của những gì sẽ
xảy ra nơi Đức Kitô.
2/ Phúc Âm: "Sao nhát thế?
Tại sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?"
Trình thuật của Marcô kể: “Hôm ấy,
khi chiều đến, Đức Giêsu nói với các môn đệ: "Chúng ta sang bờ bên kia
đi!" Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên
thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người. Và một trận cuồng phong nổi lên,
sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.” Đứng trước sóng gió, chúng ta thấy
có hai thái độ khác nhau:
2.1/ Thái độ của các Tông-đồ: Phản
ứng của con người là sợ chết; vì thế các môn đệ đánh thức Người dậy và nói:
"Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?" Chúng ta
không biết Chúa Giêsu đã làm bao nhiêu phép lạ trước mặt các ông, nhưng một điều
chắc chắn là chưa đủ để các ông đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Ngài. Sau này, trong
chương 6, sau khi đã làm phép lạ nuôi 5000 người, Chúa Giêsu lại đi trên mặt nước
đến với các ông khi bị sóng gió, các ông vẫn sợ và tưởng Người là ma. Khi Chúa
Giêsu đã truyền cho gió biển phải im lặng, các ông vẫn hoảng sợ và nói với
nhau: "Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?"
2.2/ Thái độ của Chúa Giêsu:
hòan tòan đối nghịch hẳn với thái độ của các môn đệ. Trong khi các môn đệ đang
vất vả chống chọi với sóng gió, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối
mà ngủ. Các môn đệ không hiểu nổi làm sao một người có thể ngủ khi sóng biển
gào thét như thế! Khi các ông nói lớn đánh thức, Người thức dậy, ngăm đe gió,
và truyền cho biển: "Im đi! Câm đi!" Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.”
Rồi Người bảo các ông: "Sao nhát thế? Tại sao mà anh em vẫn chưa có lòng
tin?"
Qua trình thuật hôm nay, các môn
đệ và chúng ta phải học được bài học trong cuộc đời: một khi đã có đức tin,
không một sóng gió nào trong cuộc đời có thể làm lay chuyển đức tin của chúng
ta vào Thiên Chúa. Khi phải đương đầu với chúng, đó là lúc chúng ta sống niềm
tin đó.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức tin là bảo đảm cho những
điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy.
- Đức tin phải biểu tỏ bằng hành
động: Chúng ta phải tin và làm những gì Chúa dạy.
- Đức tin phải được tinh luyện
trong thử thách và đau khổ. Người có đức tin sẽ không hỏang hốt và đau khổ khi
phải đương đầu với thử thách.