VRNs (08.03.2014) – Sài Gòn – SỐ 7 THEO TỰ NHIÊN
Số
7 là số tự nhiên đứng ngay sau số 6 và ngay trước số 8. Số 7 là con số
may mắn của người Nhật. Bình phương của 7 là 49. Căn bậc hai của 7 là
2,645751311. Số 7 là số nguyên tố đặc biệt, nghĩa là nó chỉ chia hết cho
1 và chính nó. Nó cũng là số nguyên tố Mersenne (*). Theo toán học cơ
bản, số 7 là một số lẻ mà nếu lấy 999.999 chia 7 sẽ được 142.187 (chữ số
tận cùng lại là 7).
Thể thao cũng “dính líu” số 7. Trong môn
bóng ném, mỗi đội hình gồm 7 người, họ cùng thi ném và chuyền bóng về
phía khung thành của đối phương để ghi bàn. Từ năm 1917 đến nay, bóng
ném có luật phạt đền 7m, tương tự như phạt đền trong bóng đá (túc cầu).
Giáo sư tâm lý học George Miller (Hoa
Kỳ) nghiên cứu về não người thấy rằng trí nhớ con người trưởng thành gồm
khoảng 7 thành tố – nghĩa là một người trưởng thành chỉ có thể nhớ được
khoảng 7 con số hoặc 7 chữ cái sau khi xem qua một loạt số hoặc chữ cái
ngẫu nhiên trong một khoảng thời gian ngắn. Do đó, ông gọi “trí nhớ
ngắn hạn” của con người là “số 7 bí ẩn”. Số 7 xuất hiện trong nhiều lĩnh
vực của đời sống, ngay cả nghi lễ của Lão giáo cũng dùng 7 thanh gươm
(thất kiếm) để trừ tà ma.
Về thuật phong thủy, số 7 được coi là có
sức mạnh kỳ diệu. Nếu có 7 đồ vật được bài trí trong nhà thì sẽ tạo sức
mạnh kỳ bí khiến ma quỷ không thể xâm nhập hoặc gây “xúi quẩy” cho chủ
nhà. Việt ngữ có từ “nội thất” để chỉ đồ vật trong nhà. Phải chăng chữ
“thất” (bảy, khác với chữ “thất” có nghĩa là “mất”) đó hàm ý 7 đồ vật
trong nhà?
Về nghệ thuật, người ta sáng tạo ra 7
loại hình nghệ thuật nền tảng: Điêu khắc, Hội họa, Âm nhạc, Múa, Văn
chương, Sân khấu, Điện ảnh – do đó, điện ảnh được gọi là “nghệ thuật thứ
bảy”.
Âm nhạc có 7 nốt nhạc: Đô, rê, Mi, Pha,
Son, La, Si. Văn học có những tác phẩm đặc sắc “liên quan” số 7: Những
(7) cuộc phiêu lưu của thuyền trưởng Sinbad, cổ tích nàng Bạch Tuyết và 7
chú lùn,…
Trong vật lý, triết gia Aristole (384 –
322 trước công nguyên, Hy Lạp) và giới nghệ thuật thời Phục hưng đều
đồng ý có 7 màu cơ bản cho việc phối màu. Bác học Isaac Newton (thế kỷ
17), cha đẻ thuyết trọng lực và vật lý quang học, xác định cầu vồng có 7
màu cơ bản: Đỏ, Cam, Vàng, Xanh lá, Xanh dương, Chàm, và Tím.
Theo “quy ước” chung, người ta đồng ý
xác nhận có 7 kỳ quan thế giới cổ xưa gồm: Khu lăng mộ Giza, Vườn treo
Babilon, Tượng thần Zeus ở Olympia, Đền Artemis, Lăng mộ Mausolus, Tượng
thần Mặt Trời ở Rhodes, Ngọn hải đăng Alexandria; 7 kỳ quan thế giới
mới được công bố vào thứ Bảy, ngày 7-7-2007 gồm: Bán đảo Yucatan
(Mexico), Tượng Chúa Kitô (Brazil), Vạn lý Trường thành (Trung Hoa),
Pháo đài Machu Picchu (Peru), Thành cổ Petra (Gio-đan), Đấu trường La Mã
(Ý), Đền Taj Mahal (Ấn Độ); 7 đại dương, 7 ngày trong tuần, thậm chí là
địa danh “Bảy Núi” (Thất Sơn, An Giang) và phim “Bảy Tội Ác” (1995, đạo
diễn David Fincher).
Sự xuất hiện của số 7 trong nhiều lĩnh
vực đời sống như vậy không biết là sự ngẫu nhiên? Cũng có thể số 7 có
một sức “quyến rũ kỳ lạ” mang tính huyền bí nào đó mà phàm nhân chúng ta
không thể biết được.
SỐ 7 THEO TÔN GIÁO
Theo truyền thống Công giáo, các Giáo
phụ liệt kê “BẢY mối tội đầu”. Năm 604 (sau công nguyên), ĐGH Grêgôriô I
chính thức xếp thành 7 loại, tương ứng với tên của bảy con quỷ đầu sỏ
trong Hỏa ngục, đối nghịch với BẢY Tổng lãnh Thiên thần trên Thiên đàng.
Năm 1589, tu sĩ Peter Binsfield (Dòng tên) liệt kê cụ thể như sau:
1. Lucifer – tội kiêu ngạo.
2. Mammon – tội hà tiện.
3. Asmodeus – tội dâm dục.
4. Satan – tội hờn giận, thù hằn.
5. Beelzebub – tội mê ăn uống.
6. Leviathan – tội ghen ghét, đố kỵ.
7. Belphegor – tội lười biếng thờ phượng Chúa.
Để đối lại “BẢY mối tội đầu”, chúng ta có BẢY nhân đức – gọi là “cải tội BẢY mối”:
1. Khiêm nhường chớ kiêu ngạo.
2. Rộng rãi chớ hà tiện.
3. Giữ mình sạch sẽ chớ mê dâm dục.
4. Hay nhịn chớ hờn giận.
5. Kiêng bớt chớ mê ăn uống.
6. Yêu người chớ ghen ghét.
7. Siêng năng việc Đức Chúa Trời chớ làm biếng.
Về nhân đức yêu thương (đức ái), chúng
ta có “thương xác BẢY mối” và “thương linh hồn BẢY mối”. Toàn là số 7,
những con số 7 kỳ lạ thật!
Cựu ước nhắc đến số 7.
Khi Thiên Chúa nhắc nhở về việc dâng của lễ: “Phải
dâng tinh bột lúa miến nhào với dầu làm lễ phẩm: khi dâng mỗi con bò
thì dâng mười ba lít rưỡi, khi dâng con cừu đực thì dâng chín lít; mỗi
lần dâng một con chiên trong số BẢY con, thì dâng bốn lít rưỡi” (Ds
28:20-21).
Hai lần nói thế này: “Anh em sẽ dâng
như thế mỗi ngày trong suốt BẢY ngày: đó là lương thực, là hoả tế, là lễ
vật nghi ngút hương thơm, làm thoả lòng Đức Chúa, kèm theo lễ toàn
thiêu thường tiến và lễ tưới rượu. Ngày thứ bảy, anh em sẽ phải tập hợp
để thờ phượng Đức Chúa, anh em không được làm một việc nặng nhọc nào”
(Ds 28:24-25; Ds 28:28-29).
Và hai lần nói thế này: “Phải dâng
tinh bột lúa miến nhào dầu làm lễ phẩm: khi dâng con bò, thì dâng mười
ba lít rưỡi; khi dâng con cừu đực thì dâng chín lít, và khi dâng mỗi con
chiên trong số BẢY con, thì dâng bốn lít rưỡi” (Ds 29:3-4; Ds 29:9-10).
Tân ước cũng nói đến số 7.
Trong Mt 22:23-33, người Xa-đốc không
tin có sự sống lại nên họ “gài bẫy” Chúa Giêsu về việc MỘT phụ nữ lần
lượt lấy cả BẢY anh em trai mà vẫn không có con nối dõi tông đường.
Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng
chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, trong ngày sống lại, người ta
chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.
Còn về vấn đề kẻ chết sống lại, thì các ông không đọc lời Thiên Chúa đã
phán cùng các ông sao? Người phán: Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên
Chúa của I-xa-ác và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên
Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống”. Ai cũng kinh ngạc khi nghe Chúa Giêsu dạy như vậy.
Sách Khải Huyền nói tới “BẢY thiên thần mang BẢY chén” (Kh 17:1a), rồi một vị đến bảo Thánh Gioan: “Lại
đây, tôi sẽ chỉ cho ông thấy Con Điếm khét tiếng, đang ngồi bên những
làn nước mênh mông, bị xét xử như thế nào. Vua chúa trần gian đã làm
chuyện gian dâm với nó, và những người sống trên mặt đất đã say vì thứ
rượu là sự gian dâm của nó” (Kh 17:1b-2).
Nói về Con Thú và Con Điếm: “Bấy giờ
thiên thần bảo: ‘Sao lại ngạc nhiên? Tôi sẽ nói cho ông hay ý nghĩa
huyền bí của người đàn bà và của Con Thú nó đang cỡi, là Con Thú BẢY đầu
mười sừng. Con Thú ông vừa thấy, nó đã có nhưng không còn nữa. Nó sắp
từ Vực Thẳm đi lên và đang tới chỗ diệt vong. Các người sống trên mặt
đất, mà từ thuở tạo thiên lập địa không được ghi tên trong Sổ Trường
Sinh, sẽ ngạc nhiên khi thấy Con Thú, vì nó đã có, nó không còn nữa,
nhưng sẽ trở lại. Đây là lúc cần phải có trí thông minh cùng với sự khôn
ngoan. BẢY đầu là BẢY quả núi trên đó người đàn bà ngồi. Năm vua đã đổ,
một vua hiện còn, một vua khác chưa đến, và khi vua này đến thì phải ở
lại ít thời gian thôi. Còn Con Thú đã có và không còn nữa, nó là vua thứ
tám, nó cũng thuộc số BẢY vua và đang tới chỗ diệt vong” (Kh 17:7-11).
Thánh Gioan kể lại thị kiến: “Bấy
giờ, trong số BẢY thiên thần mang BẢY chén đầy BẢY tai ương cuối cùng,
một vị đến bảo tôi: “Lại đây, tôi sẽ chỉ cho ông thấy Tân Nương, Hiền
Thê của Con Chiên” (Kh 21:9).
Cuối cùng là BẢY lời nói của Chúa Giêsu trước khi Ngài rời cõi trần gian:
1. Cầu xin Chúa Cha tha cho kẻ thù: “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34).
2. Chấp nhận lời xin của tên trộm lành: “Hôm nay anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23:43).
3. Trao gửi Thánh Gioan cho Đức Mẹ: “Thưa Mẹ, đây là con của Mẹ” (Ga 19:26).
4. Trao gửi Đức Mẹ cho Thánh Gioan: “Đây là Mẹ của anh” (Ga 19:27).
5. Than thở với Chúa Cha: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của Con, sao Ngài bỏ rơi Con!” (Mt 27:46).
6. Phó thác linh hồn cho Chúa Cha: “Lạy Cha, Con xin phó thác linh hồn Con trong tay Cha” (Lc 23:46).
7. Sau khi được nếm chút giấm chua: “Thế là mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19:30).
Tục ngữ Việt Nam cũng có câu nói đến sự gian nan: “Ba chìm, BẢY nổi, chín lênh đênh”. Số 7 kỳ lạ thật đấy!
TRẦM THIÊN THU
Ngày 7-3-2014, kỷ niệm lần thứ 740 ngày về Nhà Cha của Thánh Thomas Aquinas Tiến sĩ (1225-1274).
__________________________
(*)số có dạng lũy thừa của 2 trừ 1: 2n −
1, một số định nghĩa yêu cầu lũy thừa (n) phải là số nguyên tố) và là
một số nguyên tố: ví dụ 31 là số nguyên tố Mersenne vì 31 = 25 − 1, và 31 là số nguyên tố. Điều kiện để số Mn nguyên
tố là n là số nguyên tố, 24 -1 = 15 là hợp số vì 4 không là nguyên tố,
nhưng ngược lại không đúng: ví dụ số Mersenne 2047 = 211 − 1
không là nguyên tố vì nó chia hết cho 89 và 23, mặc dù số 11 là số
nguyên tố. Hiện nay, các số nguyên tố lớn nhất được tìm thấy thường là
số nguyên tố Mersenne.
Các số nguyên tố Mersenne có quan hệ
chặt chẽ với các số hoàn thiện, nghĩa là các số bằng tổng các ước chân
chính của nó. Trong lịch sử, việc nghiên cứu các số nguyên tố Mersenne
đã từng bị thay đổi do các liên quan này; vào thế kỷ 4 TCN, Euclid phát
biểu rằng nếu M là số nguyên tố Mersenne thì M (M+1)/2 là số hoàn thiện.
Vào thế kỷ 18, Leonhard Euler chứng minh rằng tất cả các số hoàn thiện
“chẵn” đều có dạng này. Không một số hoàn thiện “lẻ” nào được biết, và
người ta nghi ngờ rằng chúng không tồn tại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét