Sau một sự kiện thành công
rực rỡ, các nhà tổ chức Ngày GTTG tại Brazil đã công bố những con số
thống kê được, cho thấy có 2 ngày số người tham dự vượt quá ngưỡng 3
triệu.
Trong khi có hơn 3.5 triệu
khách hành hương tham dự các sự kiện của Ngày GTTG thì chỉ có 427,000
người ghi danh. Số người tham dự tăng dần trong tuần. Hôm thứ Ba 23/7 có
600 ngàn người tham dự. Tuy nhiên đến thứ Sáu con số khách hành hương
đã lên đến 2 triệu.
Số người tham dự các sự kiện
trong ngày thứ Bảy, kể cả đêm canh thức tại bãi biển Copacabana, lên
đến mức kinh ngạc là 3.5 triệu. Nhưng đến Thánh lễ bế mạc hôm Chúa Nhật,
sự kiện long trọng nhất, thì số người tham dự là 3.7 triệu.
Gần nửa triệu khách hành
hương ghi danh tham dự Ngày GTTG đến từ 175 quốc gia và 60% ở độ tuổi từ
19 đến 35. Quốc gia có số người ghi danh tham dự đông nhất là Brazil,
Argentina, Hoa Kỳ, Chile và Italy.
Có hơn 7800 linh mục tham dự
Ngày GTTG. Số lượt người rước lễ trong các Thánh lễ khác nhau tại Đại
hội là hơn 4 triệu. Khách hành hương đã tiêu xài hết 784 triệu dollars,
tương đương 1.8 tỉ Reais trong sự kiện kéo dài suốt 1 tuần tại Rio.
Dòng Tên giới thiệu Niêm giám 2013: nỗ lực giúp gần 24,000 người trẻ Phi châu đến trường
Đối với nhiều người, việc tìm kiếm nước Kyrgyzstan trên
bản đồ thế giới rất khó khăn, thì đối với dòng Tên, việc ấy rất bình
thường. Họ đã hiện diện trên đất nước Á châu bé nhỏ này từ thập niên
1980 với đa số người dân theo đạo Hồi.
Thông tin này được tìm thấy trong quyển Niên giám 2013,
trang bìa là hình một người đàn ông trong xứ sở này. Quyển Niên giám
giải thích công trình mà hơn 17,200 tu sĩ dòng Tên đang đảm nhận trên
khắp thế giới. Điểm nổi bật trong năm là những công việc tại Á châu, Phi
châu và các nước Kito giáo toàn tòng.
Chẳng hạn ở Phi châu, dòng Tên đã có mặt
hơn 400 năm. Có khoảng 1,500 tu sĩ dòng Tên đã dạy hơn 24 ngàn thanh
thiếu niên ở các trung tâm giáo dục. Có nhiều dự án đang thực hiện, bao
gồm các trường đại học mới và thành lập trường Trung học Loyola tại
Malawi, nơi chỉ có từ 3 đến 10 thanh thiếu niên học đến bậc trung học.
Ban Di dân dòng Tên (Jesuit Refugee Service) tiếp
tục mang niềm hy vọng cho những ai đã mất hết mọi thứ tại các nước như
Sudan, Ethiopia, Malawi, Cộng hòa Trung Phi và Chad. Mạng lưới AIDS của
dòng Tên tại Phi châu hoạt động đến nay gần 10 năm, sẽ cung cấp những
dịch vụ quan trọng cho những người trẻ bị nhiễm thứ virus này.
Niêm giám này cũng mô tả công trình của
các tu sĩ dòng Tên phát triển ở những vùng Kito giáo toàn tòng và việc
đối thoại liên tôn. Họ đã tham dự tích cực vào Viện Cơ Đốc (Ecumenical Institute)
ở Geneva, một tổ chức đã hơn 50 tuổi, cùng với 1,600 người khác. Tổ
chức này đã nỗ lực đối thoại với những người theo Do Thái giáo, Hồi giáo
tại Indonesia, những người theo đạo Hindus tại Ấn Độ và những người
theo Phật giáo tại Trung Quốc.
Niêm giám dòng Tên năm 2013 này kết thúc
thống kê hồi tháng 9 năm 2012. Rất ít người có thể hình dung được rằng
chỉ nửa năm sau đó, lần đầu tiên trong lịch sử, thế giới có một vị Giáo
hoàng dòng Tên.
Ngày 01.08: Lễ thánh An Phong, đấng sáng lập DCCT
Anphong sinh tại Maria-nella gần Napoli,
ngày 27-12-1696. Vào đại học hoàng gia lúc lên 12, đậu hai bằng tiến sĩ
luật đạo và đời lúc lên 16, làm luật sư và chánh án lúc lên 20 tuổi. Với
nền học vấn uyên thâm, Anphong còn có tài hội họa và âm nhạc. Ngày
21-12-1726, Anphong được thụ phong linh mục. Vị tân linh mục dấn thân
ngay vào việc giảng các tuần đại phúc. Càng tiếp xúc với đám bình dân,
Anphongsô càng nhận thực sự thiếu thốn về đàng thiêng liêng của họ.
Trong tuần đại phúc ở Campagna gần thành Eboli, Anphongsô cảm thấy một
cơn xúc động mãnh liệt trước cảnh thiếu thốn vật chất và nhất là tinh
thần của những người nghèo khó tất bạt. Trong khi 12 ngàn linh mục sống
trong thủ đô hoa lệ để phục vụ cho người giàu thì ở đây, chỉ cách thủ đô
Napoli mấy chục cây số, không có linh mục nào để “bẻ bánh Lời Chúa”
nuôi dưỡng họ. Anphong trở về Napoli với một ý định: Lập một Dòng tu
chuyên lo cho người nghèo khó tất bạt.
Trong hai năm, ngài suy nghĩ, bàn hỏi với
những người khôn ngoan, và ngày 9 tháng 11 năm 1732, trong chính ngày
lễ Chúa Cứu Thế, tại Scala, Dòng Chúa Cứu Thế được chính thức lập thành
với năm tu sĩ tiên khởi. Anphong viết trong nhật ký: “Hôm nay, tôi thề
hứa sẽ không bao giờ bỏ Dòng. Tôi làm một lời thề là không bao giờ nghi
ngờ về ơn kêu gọi của tôi và luôn vâng lời Cha Falcoia”. Cha Facoia sau
làm Giám mục Castellamare, một vị linh hướng rất khôn ngoan và thánh
thiện. Sáu tháng sau, mọi người đều bỏ ngài. Anphong viết rằng: “Tôi tin
chắc rằng Chúa không cần tôi và công cuộc của tôi. Nhưng tôi tin rằng
Ngài truyền cho tôi phải tiếp tục và cho dầu chỉ còn lại một mình, tôi
vẫn cố đạt đến mục đích”. Nhà Dòng chỉ còn lại hai người: Anphong và
Thầy Vitô! Để đáp ứng nhu cầu, ngài lập thêm nhiều tu viện mới: Liberi
(1733), Pagani (1734), Ciorani (1735), Illiceto (1745), Caposele (1746).
Anphong đã viết tất cả 111 cuốn sách được
tái bản đến 21.000 lần. Trong số ấy, những cuốn được ưa chuộng nhất là:
Viếng Thánh Thể (tái bản 2.017 lần), Vinh Quang Đức Maria (tái bản hơn
1.000 lần), Yêu mến Chúa Giêsu (tái bản 535 lần), Dọn Mình Chết Lành
(tái bản 319 lần), Nữ Tu Thánh Thiện (tái bản 254 lần), Cầu Nguyện-
Phương Thế tuyệt hảo (tái bản 238 lần). Các sách ấy cũng được phiên dịch
ra 36 thứ tiếng. Anphong viết trước tiên là cho quần chúng bình dân
nhưng ngài cũng không quên các linh mục. Năm 1757, ngài ấn hành cuốn
Thực Hành việc Giải Tội, dành cho các cha giải tội, và cuốn sách vĩ đại
nhất là cuốn Thần Học Luân Lý. Sách này được phát hành thành 3 cuốn khổ
lớn với 70.000 dẫn chứng xuất xứ từ 800 tác giả. Để hoàn tất bản thảo
của công cuộc vĩ đại ấy vào lúc mà mọi cái đều phải chép tay. Nội dung
của tác phẩm vĩ đại này cũng như các sách vở khác đã khiến cho Giáo Hội
tôn phong ngài làm Tiến sĩ Hội Thánh và Quan thầy các nhà Luân lý và các
cha giải tội.
Dòng Chúa Cứu thế được Đức giáo Hoàng
Bênêđitô XIV chính thức công nhận năm 1749 dưới danh xưng Congregatio
Sanctissimi Redemptoris viết tắt là C.Ss.R. Gồm các linh mục và tu sĩ,
những vị thừa sai của “những người thiếu thốn về phần linh hồn”. Năm
1762, Tòa Giám Mục Sainte Agathe des Goths trống ngôi. Có 62 vị là ứng
cử viên vào chức vụ ấy. Đức Giáo Hoàng Clêmentê XIII đã chọn Cha
Anphong, ngoài danh sách làm Giám mục. Ngài hết sức từ chối nhưng cuối
cùng cũng phải chấp nhận. Việc đầu tiên khi tiếp nhận địa phận mới là tổ
chức một tuần đại phúc quy mô và trong vòng 10 năm, ngài đã cải tổ lại
từ hàng giáo sĩ đến giáo dân, từ những cơ cấu trung ương như các chủng
viện đến các họ đạo, biến Sainte Agathe des Goths thành một địa phận
gương mẫu. Tháng 7 năm 1775, Anphongsô đã được 80 tuổi, già yếu bệnh
tật, người xin từ chức nhưng Đức Clêmentê không cho và ngài nói: “hình
bóng của Đức cha Anphong cũng có thể cai quản địa phận được”. Ít lâu
sau, Đức Clêmentê XIII qua đời, Đức Piô VI lên kế vị, đã chấp thuận đơn
từ chức. Thánh Anphong sung sướng trở về lại nhà Dòng ở Pagani để “dọn
mình chết”.
Ngày 1 tháng 8 năm 1787, trong khi chuông
nhà thờ Pagfani báo hiệu Kinh Truyền Tin thì Thánh Anphong qua đời,
trong tay cầm mẫu ảnh Đức Mẹ, nguồn hy vọng. Theo truyền thống của Dòng,
ngày một anh em qua đời là ngày nghỉ, ngày vui, ngày sinh nhật của
Anphong trên trời. Thánh Anphong hưởng thọ 91 tuổi, và ngài được tôn
phong hiển thánh năm 1839 và Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1871.
Mừng lễ tất cả các tu sĩ DCCT nam cũng như nữ, và các thành viên trong đại gia đình Thánh An Phong.
Lạy cha Thánh An Phong, cầu cho chúng con!
PV. VRNs
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét