VRNs (22.07.2013)
– Sài Gòn – Thánh Maria Mađalêna (hoặc Maria Mácđala) được cả Công
giáo, Chính thống giáo, Anh giáo, và Tin lành Luther tôn kính là một vị
thánh, lễ nhớ ngày 22 tháng 7 hằng năm. Các Giáo hội Tin lành khác tôn
kính bà là nữ anh hùng đức tin. Chính thống giáo Đông phương cũng kính
nhớ bà vào Chúa nhật Myrrh-bearers (người mang dầu thơm).
Tên “cúng cơm” của Thánh Maria Mađalêna
là Μαρία (Maria), và thường được coi ở dạng Latin viết là Μαριὰμ
(Mariam). Tên Maria rất phổ biến trong thời Chúa Giêsu vì liên quan việc
cai trị thời Hasmonea và các triều đại Hêrôđê.
Tuy nhiên, bà bị tai tiếng vì bà bị hiểu lầm là “người phụ nữ tội lỗi” đã khóc và xức dầu thơm chân Chúa Giêsu.
Thực ra Maria Mađalêna (Hy ngữ: Μαρία ἡ
Μαγδαληνή) là một phụ nữ đạo đức và can đảm. Trong Tân ước, Thánh Maria
Mađalêna được coi là người phụ nữ quan trọng thứ nhì sau Đức Maria, Mẹ
Thiên Chúa. Bà đồng hành với Chúa Giêsu cùng với các Tông đồ. Bà hiện
diện trong hai thời điểm quan trọng nhất của Chúa Giêsu: Chịu đóng đinh
và phục sinh. Trong 4 Phúc Âm, tài liệu lịch sử cổ xưa nhất nhắc đến tên
bà, ít nhất 12 lần, hơn cả các Tông đồ khác. Phúc Âm diễn tả bà là
người đủ can đảm nên mới có thể đứng bên Chúa Giêsu trong thời gian Ngài
chịu khổ nạn, chịu chết và sau đó.
Trong Tân ước, Chúa Giêsu đã trừ bảy quỷ
và chữa bệnh cho bà (x. Lc 8:2; Mc 16:9), đôi khi được hiểu là các chứng
bệnh phức tạp. Bà nổi bật nhất trong những ngày cuối đời của Chúa Giêsu
trên thế gian. Khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, bà có mặt ở đó với Ngài,
trong giây phút khủng khiếp nhất, và bà đã than khóc Ngài. Sau khi các
Tông đồ “bỏ của chạy lấy người”, trừ Thánh Gioan Tông đồ, bà vẫn ở bên
Chúa Giêsu. Khi an táng Chúa Giêsu, bà là người duy nhất được kể tên
trong cả 4 Phúc Âm khi biết Chúa Giêsu phục sinh và chính bà là nhân
chứng đức tin. Ga 20:11-18 và Mc 16:9 xác nhận bà là người đầu tiên gặp
Chúa Giêsu phục sinh. Bà có mặt vào ngay giây phút đầu tiên mà sau đó
biến đổi Tây phương. Bà là “Tông đồ đối với các Tông đồ”, một cách nói
kính cẩn mà thần học gia Augustine (Chính thống giáo, thế kỷ IV) đã dành
cho bà, và những người thời Giáo hội sơ khai cũng nói về bà như vậy.
Mặc dù ngày xưa bà bị mang tai tiếng khi
người ta mô tả trong tôn giáo, nghệ thuật, văn chương, và cả những cuốn
sách và các bộ phim mới đây, như The Da Vinci Code (Mật mã Da Vinci),
ngày nay người ta cũng đồng ý điều này: “Không có chứng cớ Kinh Thánh nào chứng tỏ bà là gái điếm, người vợ, người mẹ, hoặc người yêu bí mật”.
Trong cả 4 Phúc Âm, Thánh Maria Mađalêna
hầu như luôn được phân biệt với các phụ nữ khác tên là Maria bằng cách
thêm chữ Mađalêna vào tên bà. Theo truyền thống, điều này có nghĩa bà là
người vùng Mađalêna, một thành phố thuộc Tây duyên hải Galilê. Lc 8:2
nói rằng bà thực sự được gọi là Mađalêna. Theo tiếng Do thái, Mađalêna
(Migdal, מגדל) nghĩa là “tháp”, “thành lũy”; theo tiếng Aram, Mađalêna
nghĩa là “tháp” hoặc “được nâng lên, cao cả, nguy nga”. Các bản văn
truyền thống Do Thái nói: “Miriam, hamegadela se’ar nasha” – Maria,
người bện tóc phụ nữ (Hagigah 4b; x. Shabbat 104b), có thể nói Maria
Mađalêna phục vụ như người làm tóc.
Trong Phúc Âm theo Thánh Gioan, Thánh
Maria Mađalêna cũng được nhắc tới bằng tên Maria ít nhất là 2 lần. Các
văn bản không chính thức khác thì dùng tên Maria, Maria Mađalêna, hoặc
Mađalêna.
Ngày nay, hầu như người ta đồng ý điểm
quan trọng: Người ta cho rằng Thánh Maria Mađalêna là “gái điếm sám
hối”, đó là vô căn cứ. Tuy nhiên, Thánh Maria Mađalêna vẫn bị lầm lẫn
với các phụ nữ khác cũng tên Maria và vài phụ nữ nặc danh vẫn bị coi là
phụ nữ phạm tội ngoại tình. Người ta đồng hóa Maria Mađalêna với nữ tội
nhân vô danh nào đó (thường biết đến là phụ nữ ngoại tình) trong trình
thuật Lc 7:36-50. Mặc dù Thánh Maria Mađalêna được nhắc tên trong cả 4
Phúc Âm, nhưng không lần nào nói bà là gái điếm hoặc tội nhân. Tân ước
không hề có “gợi ý” nào nói bà là một cô gái làng chơi hoặc một phụ nữ
trắc nết. Các học giả đương đại đã phục hồi “danh tiếng” cho Thánh Maria
Mađalêna là người dẫn dắt quan trọng của Kitô giáo thời sơ khai.
Nhiều thế kỷ qua, Công giáo Tây phương
dạy rằng Thánh Maria Mađalêna là người được nói tới trong các Phúc Âm
vừa là Maria ở Bêthania vừa là “người đàn bà tội lỗi” xức dầu thơm chân
Chúa Giêsu (Lc 7:36-50). Khái niệm về Thánh Maria Mađalêna là gái điếm
sám hối đã phổ biến qua nhiều thế kỷ, ít là từ Ephraim người Syria (thế
kỷ IV), Thánh GH Grêgôriô Cả (thế kỷ VI), nhiều họa sĩ, văn sĩ và các
nhà chú giải Kinh Thánh cũng theo xu hướng đó. Từ thế kỷ XII, Abbot Hugh
ở Semur (qua đời năm 1109), Peter Abelard (qua đời năm 1142), và
Geoffrey ở Vendome (qua đời năm 1132) đều nhắc tới Thánh Maria Mađalêna
là người tội lỗi và được tặng danh hiệu “apostolarum apostola” (Tông đồ
đối với các Tông đồ), danh hiệu này trở thành phổ biến trong các thế kỷ
XII và XIII. Do đó, hình ảnh cô-gái-điếm-sám-hối trở thành “đặc điểm” bị
gán cho Thánh Maria Mađalêna trong nghệ thuật và văn chương tôn giáo ở
Tây phương. Vì hiểu sai về bà nên trong nghệ thuật, người ta thường vẽ
bà mặc áo hở cổ, lả lơi, thậm chí có họa sĩ còn vẽ bà khỏa thân bên
chiếc sọ đầu lâu với bình dầu thơm, và một tay cầm Thánh Giá, hoặc là
một phụ nữ xa lánh mọi người để sám hối nơi hoang địa.
Sự đồng hóa đó là do Công giáo Tây
phương, có trong bài giảng của Thánh GH Grêgôriô Cả vào khoảng năm 591.
Thánh GH Grêgôriô Cả được coi là một trong những người ảnh hưởng nhất và
trở thành giáo hoàng. Trong các bài giảng nổi tiếng của ngài về Thánh
Maria Mađalêna, giảng tại Rôma, ngài đã xác định Mađalêna không chỉ là
phụ nữ tội lỗi trong Phúc Âm theo Thánh Luca, mà còn là Maria ở
Bêthania, chị của Matta và Ladarô; chính bảy quỷ được Chúa Giêsu trục
xuất “đã tạo thành 7 tội trọng, và Maria Mađalêna bắt đầu bị kết án
không chỉ vì tội dâm dục mà còn vì tội kiêu ngạo và tham lam”. Bài giảng
của Thánh GH Grêgôriô Cả về Phúc Âm theo Thánh Luca đã tạo thành cách
hiểu chính thức của Giáo hội về Thánh Maria Mađalêna, cho rằng bà là phụ
nữ “alabaster jar” (gái điếm).
Trong bài giảng XXXIII, Thánh GH Grêgôriô Cả nói: “Bà
[Maria Mađalêna] là người mà Thánh Luca gọi là phụ nữ tội lỗi, Thánh
Gioan gọi là Maria, chúng ta tin là Maria được trừ bảy quỷ trong Phúc Âm
theo Thánh Máccô. Bảy quỷ này biểu hiện điều gì, nếu không phải là các
thói hư? Anh chị em thân mến, rõ ràng là phụ nữ này trước đó đã xức thơm
thân xác cô bằng những hành động bị cấm. Do đó điều cô biểu hiện càng
khiếm nhã hơn, nhưng nay cô dâng cho Chúa bằng động thái đáng khen. Cô
đã ham muốn bằng con mắt trần tục, nhưng nay cô ăn năn bằng nước mắt. Cô
đã xõa tóc che mặt, nhưng nay cô dùng tóc lau khô nước mắt. Miệng cô đã
nói những điều kiêu ngạo, nhưng nay cô dùng miệng hôn chân Chúa, cô đặt
miệng mình lên chân Đấng Cứu Thế. Do đó, đối với mỗi niềm vui, cô đã có
trong lòng, nay cô hy sinh chính mình. Cô biến tội lỗi thành nhân đức
để phục vụ Thiên Chúa hoàn toàn trong sự ăn năn”.
Với điều này, tác giả Susan Haskins viết trong cuốn “Mary Magdalene: Myth and Metaphor” (Maria Mađalêna: Huyền thoại và Ẩn dụ): “Cuối cùng, hình ảnh xung đột của Thánh Maria Mađalêna cũng được sáng tỏ… sau gần 140 năm”.
Năm 1969, trong triều đại giáo hoàng của
Chân phước Phaolô VI, Tòa Thánh không phê bình về nhận xét của Thánh GH
Grêgôriô Cả, mà chỉ bỏ điều đó bằng cách tách biệt người phụ nữ tội lỗi
trong Phúc Âm theo Thánh Luca với bà Maria ở Bêthania và Maria Mađalêna
qua Sách lễ Rôma.
Do đó, tai tiếng vẫn cứ “lờn vờn” bị gán
cho Thánh Maria Mađalêna. Sau thời gian quá lâu, cách tin này trở thành
“thâm căn cố đế” không chỉ trong Giáo hội Tây phương mà còn trong một số
Giáo hội Tin lành đã từng theo truyền thống Công giáo Rôma. Cách hiểu
sai về Thánh Maria Mađalêna là cô-gái-điếm-sám-hối vẫn được nhiều văn sĩ
và họa sĩ hồi thập niên 1990. Thậm chí ngay cả ngày nay, cách hiểu sai
đó vẫn được truyền bá. Điều đó được phản ánh trong bộ phim của Martin
Scorsese – phỏng theo tiểu thuyết “Cơn Cám Dỗ Cuối Cùng của Đức Kitô”
(The Last Temptation of Christ) của Nikos Kazantzakis, trong phim “Phúc
Âm theo Chúa Giêsu Kitô” (The Gospel According to Jesus Christ) của José
Saramago, trong “Siêu Sao Giêsu Kitô” của Andrew Lloyd Webber, trong
“Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô” của Mel Gibson, trong “Màu Thập Giá” (Color
of the Cross) của Jean-Claude La Marre và trong “Sách Sự Sống” (The Book
of Life) của Hal Hartley.
Vì hiểu sai về Thánh Maria Mađalêna là
gái điếm nên người ta mới chọn bà làm bổn mạng của “các phụ nữ hư hỏng”,
và Viện tế bần Mađalêna đã được thành lập để “cứu vớt” các chị em từ
nhà thổ.
Thánh sử Luca cho biết: “Đức Giêsu
rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước
Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã
được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Maria gọi là Maria Mađalêna,
người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gioanna, vợ ông Khu-da quản lý
của vua Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của
cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ” (Lc 8:1-3).
Lúc Chúa Giêsu chịu khổ hình và phục
sinh, Thánh Maria Mađalêna đã có mặt bên Chúa Giêsu. Trong số những
người theo Chúa Giêsu chỉ có bà được nói rõ tên là nhân chứng 3 sự kiện
quan trọng: Chúa Giêsu chịu khổ nạn, Chúa Giêsu chịu mai táng, và ngôi
mộ trống. Mc 15:40, Mt 27:56 và Ga 19:25 nói đến Thánh Maria Mađalêna là
nhân chứng khi Chúa Giêsu chịu khổ nạn, cùng với các phụ nữ khác. Thánh
Luca không nêu tên nhân chứng, nhưng nói: “Đứng đàng xa, có tất cả
những người quen biết Đức Giêsu cũng như những phụ nữ đã theo Người từ
Galilê; các bà đã chứng kiến những việc ấy” (Lc 23:49). Thánh Máccô nói: “Còn bà Maria Mađalêna và bà Maria mẹ ông Giôxết, thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người” (Mc 15:47), và Thánh Matthêu nói: “Còn bà Maria Mađalêna và một bà khác cũng tên là Maria ở lại đó, quay mặt vào mồ” (Mt 27:61). Lc 23:55 cho biết: “Cùng
đi với ông Giô-xếp, có những người phụ nữ đã theo Đức Giê-su từ
Ga-li-lê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế
nào”. Ga 19:39-42 mô tả: “Ông Nicôđêmô cũng đến. Ông này trước
kia đã tới gặp Đức Giêsu ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc
dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải
tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái. Nơi Đức
Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn
mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do-thái, mà
ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó”.
Thánh Máccô, Matthêu và Gioan đều nói
Thánh Maria Mađalêna là nhân chứng đầu tiên đối với việc Chúa phục
sinh. Ga 20:1 cho biết Thánh Maria Mađalêna mô tả việc thấy ngôi một
trống. Mc 16:9 nói: “Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ
nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Mađalêna, là
kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ”. Mt 28:1 nói: “Sau ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Maria Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Maria, đi viếng mộ”.
Sau khi thuật lại cho các Tông đồ biết
Chúa Giêsu đã phục sinh, Thánh Maria Mađalêna không được nhắc đến trong
Tân ước nữa. Bà cũng không được nhắc tên trong sách Công vụ, và “số
phận” bà vẫn không được tài liệu ghi lại và không được “minh oan”. Có
phải vì vậy mà bà cứ bị hiểu lầm là “người phụ nữ tội lỗi” chăng?
Hy vọng từ nay Thánh Maria Mađalêna sẽ không còn bị “mang tiếng” và không còn bị chúng ta hiểu lầm như xưa nay nữa!
Lạy Thánh Maria Mađalêna, xin nguyện giúp cầu thay. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét