Viết bởi LM. Anthony Đinh Minh
Tiên, OP
Lễ Thánh Lucas Thánh Sử (Ngày 18
tháng 10)
Bài đọc: 2 Tim 4:9-17a; Lk
10:1-9.
1/ Bài đọc I: 9 Anh
hãy mau mau đến với tôi,
10 vì anh Đê-ma đã bỏ tôi,
bởi yêu mến thế gian này; anh ta đã đi Thê-xa-lô-ni-ca. Anh Cơ-rét-xen đã đi
sang miền Ga-lát, anh Ti-tô đi sang miền Đan-ma-ti-a.
11 Chỉ còn một mình anh
Lu-ca ở với tôi. Anh hãy đem anh Mác-cô đi với anh, vì anh ấy rất hữu ích cho
công việc phục vụ của tôi.
12 Anh Ty-khi-cô thì tôi đã
sai đi Ê-phê-xô.
13 Cái áo choàng tôi đã để
lại nhà anh Các-pô ở Trô-a, thì khi đến, xin anh đem theo, cũng như các sách vở,
nhất là những cuộn giấy da.
14 A-lê-xan-đê, người thợ
rèn, đã gây cho tôi nhiều khốn khổ; Chúa sẽ cứ việc anh ta làm mà trả báo.
15 Cả anh nữa, cũng hãy đề
phòng anh ta, vì anh ta mạnh mẽ chống lại lời chúng ta rao giảng.
16 Khi tôi đứng ra tự biện
hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin
Chúa đừng chấp họ.
17 Nhưng có Chúa đứng bên cạnh,
Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và
tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng.
2/ Phúc Âm: 1 Sau đó,
Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi
trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.
2 Người bảo các ông:
3 Anh em hãy ra đi. Này Thầy
sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.
4 Đừng mang theo túi tiền,
bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.
5 Vào bất cứ nhà nào, trước
tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này!"
6 Nếu ở đó, có ai đáng hưởng
bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an
đó sẽ trở lại với anh em.
7 Hãy ở lại nhà ấy, và người
ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả
công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia.
8 Vào bất cứ thành nào mà
được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em.
9 Hãy chữa những người đau
yếu trong thành, và nói với họ: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các
ông."
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành
viết và rao giảng Tin Mừng.
Thánh Lucas không phải là người
Do-thái. Ngài được đề cập riêng khỏi những người Do-thái (Col 4:14), và kiểu mẫu
viết văn chứng tỏ ngài là người Hy-lạp. Vì thế, ngài không thể nào bị đồng nhất
với ngôn sứ Lucius của Acts 13:1 hay Lucius của Romans 16:21, người đồng hương
của Phaolô. Epiphanius không đúng khi gọi ngài là một trong số 72 môn đệ. Ngài
cũng không phải là người đồng hành với Cleopas trên hành trình Emmaus. Thánh
Lucas có kiến thức nhiều về Bản Bảy Mươi (Septuagint) và truyền thống Do-thái
mà ngài thu nhận được hoặc khi ngài đang là một tân tòng Do-thái hay sau khi
ngài đã trở thành một Kitô hữu, qua việc giao tiếp với các tông-đồ và các môn đệ.
Ngài sinh sống tại Antioch, thủ
đô của Syria. Ngài là một y sĩ, và Phaolô đã gọi ngài là “một y sĩ đáng yêu nhất”
(Col 4:14). Thánh Lucas xuất hiện lần đầu tại Troas khi ngài gặp thánh Phaolô
(Acts 16:8). Từ đó, ngài trở thành người bạn đồng hành cùng rao giảng Tin Mừng
với Phaolô và viết Tin Mừng Thứ Ba cùng Công Vụ Tông Đồ. Ngài là bạn trung
thành với Phaolô trong lần Phaolô bị giam lần cuối cùng như trình thuật hôm nay
viết (2 Tim 4:7-11). Ba lần ngài được đề cập đến trong các Thư của Phaolô (Col
4:14; Phi 24; 2 Tim 4:11), ngài được kể tên cùng với Marcô. Điều này chứng minh
Lucas quen thuộc với Marcô và Tin Mừng của ông. Lucas chắc cũng nhiều lần có cơ
hội gặp Phêrô và giúp ông trong việc viết các Thư Phêrô bằng tiếng Hy-lạp.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chỉ còn một mình
anh Lucas ở với tôi.
1.1/ Phaolô hoàn toàn tin tưởng
nơi sự quan phòng của Thiên Chúa. Sau khi đã làm chứng cho Đức Kitô tại
Jerusalem, Ngài đã hiện ra với ông trong một thị kiến ban đêm để an ủi và cho
ông biết ông sẽ làm chứng cho Ngài tại Roma nữa; đồng thời Ngài cũng cho ông biết
những gian nan nguy hiểm đang chờ ông tại Roma.
Phaolô viết thư này cho môn đệ
Timothy khi ông đang bị giam trong tù tại Roma, với mục đích để khích lệ tinh
thần cho Timothy sẵn sàng làm chứng cho Đức Kitô. Phaolô không cho là ông xứng
đáng với triều thiên dành cho người công chính bằng những công việc ông làm;
nhưng Phaolô muốn nhấn mạnh đến niềm tin trung thành nơi Đức Kitô. Ngài là Thẩm
Phán Chí Công, Ngài là Đấng sẽ tuyên bố Phaolô là người công chính, và sẽ trao
phần thưởng là triều thiên công chính cho ông.
Đoạn văn này là bằng chứng cho
những người hiểu lầm học thuyết của Phaolô khi ông nói con người được công
chính nhờ đặt niềm tin nơi Đức Kitô, mà không cần phải làm gì để chứng tỏ niềm
tin. Phaolô chứng minh niềm tin của ông vào Thiên Chúa bằng việc hoàn tất sứ vụ
rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại mà Đức Kitô đã trao cho ông, và giờ đây, ông
còn sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho Tin Mừng ông rao giảng trên đất Rôma của
Dân Ngoại.
1.2/ Phaolô có thể vượt qua mọi
trở ngại là nhờ ông vững tin nơi Thiên Chúa: Nhìn lại cuộc đời rao giảng Tin Mừng
của Phaolô, chúng ta không khỏi ngạc nhiên về sự kiên trì phi thường của ông,
khi phải đương đầu với những đau khổ bên trong cũng như bên ngoài, như trong
trình thuật hôm nay, ông viết: “Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng
có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ.” Tuy phải
chịu đau khổ như thế, nhưng ông đã noi gương Đức Kitô, chẳng những không trách
cứ họ, mà còn cầu nguyện cho họ nữa.
Phaolô nhận ra sức mạnh để chịu
đựng và sự thành công trong việc rao giảng Tin Mừng không đến từ con người yếu
đuối của ông; nhưng nhờ ông đặt niềm tin trọn vẹn nơi Đức Kitô. Ông viết: “Có
Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng
được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã
thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc,
sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển
đến muôn thuở muôn đời. A-men.”
2/ Phúc Âm: "Triều Đại
Thiên Chúa đã đến gần các ông."
2.1/ Khác biệt về văn bản: Theo
Lucas, Chúa Giêsu không chỉ chọn 12 Tông-đồ, nhưng còn nhiều môn đệ khác, để huấn
luyện và sai đi rao giảng Tin Mừng. Trong Lucas, có hai lần sai đi: Lần thứ nhất,
Chúa Giêsu sai 12 tông đồ (Lk 9:1-6; Mt 10:1, 7-16; Mk 6:7-13). Lần thứ hai, chỉ
có trong Lucas, theo trình thuật hôm nay: “Chúa chỉ định bảy mươi hai người
khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các
nơi mà chính Người sẽ đến.”
2.2/ Môn đệ là sứ giả mang Tin Mừng.
(1) Phải ý thức sứ vụ cuả mình:
Chúa Giêsu biết những nguy hiểm người môn đệ phải đương đầu khi Ngài nói với
các ông: “Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.” Hai điều
Ngài muốn đề phòng cho các ông:
- “Đừng mang theo túi tiền, bao
bị, giày dép”: Đây là những thứ ngăn cản việc rao giảng Tin Mừng. Lo lắng quá
nhiều về phương diện sinh sống sẽ ngăn cản các ông dành mọi cố gắng cho việc
rao giảng Tin Mừng.
- “Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường”:
Chúa Giêsu không dạy các môn đệ bất lịch sự hay sống cách biệt. Ngài chỉ muốn
các môn đệ biết tính khẩn cấp của việc rao giảng Tin Mừng để các ông đừng trò
chuyện vô ích dọc đường, làm mất thời gian rao giảng (cf. 2 Kgs 4:29).
(2) Chấp nhận Tin Mừng là điều
kiện để có bình an: Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ: “Vào bất cứ nhà nào, trước
tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này!"” Điều này chứng tỏ Tin Mừng cứu
độ được trao cách nhưng không cho mọi người. Theo Lucas, sự bình an này được
liên kết với ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho mọi người (cf. 1:79, 2:14-29,
7:50, 8:48, 12:51, 19:38). Chấp nhận Tin Mừng là có bình an: “Nếu ở đó, có ai
đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không
thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.” Điều Chúa Giêsu muốn ám chỉ ở đây là sự
bình an trong các môn đệ có năng lực làm cho người khác cũng cảm thấy được bình
an.
2.3/ Môn đệ là sứ giả của Nước
Trời.
(1) Đừng tìm kiếm những sự thế
gian: Nhiều người nói “nếu không đem theo tiền bạc và bao bị thì lấy gì mà ăn.”
Nói như thế là khinh thường sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài coi các môn đệ
là những người làm cho Ngài, và “thợ làm đáng được trả công đời này” (1 Tim
5:18; cf. 1 Cor 9:7-14). Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh: “người ta cho ăn
uống thức gì, thì anh em dùng thức đó.” Người rao giảng không được đòi hỏi, họ
phải có khả năng ăn thức ăn của địa phương dâng tặng. Họ cũng không thể sống
theo luật Kosher của Do-thái nữa. Người môn đệ cũng “đừng đi hết nhà nọ đến nhà
kia” để tìm lợi nhuận vật chất hay chỗ ăn ở sung sướng hơn.
(2) Làm cho triều đại Thiên Chúa
mau đến: Chúa Giêsu nhắc lại bổn phận chính của người môn đệ: “Hãy chữa những
người đau yếu trong thành, và nói với họ: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần
các ông."” Triều đại của Thiên Chúa đã đến với sự xuất hiện của Đức Kitô
và các môn đệ loan báo Tin Mừng này đến cho mọi người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta hãy noi gương hai
thánh Lucas và Phaolô để biết hy sinh dành trọn cuộc đời cho việc rao giảng Tin
Mừng.
- Chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn
trong việc rao giảng Tin Mừng vì đó là những giá trị ngược lại với những giá trị
của thế gian; nhưng ai bền vững đến cùng sẽ được cứu thoát.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét