Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2013
Tinh thần truyền giáo
ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
“Không biết khi Con
Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?”. Trang
Tin Mừng hôm nay được kết thúc như thế.
Có thể đó là câu hỏi
một thoáng bâng khuâng Chúa Giêsu thốt lên cho riêng mình Người. Cũng có
thể đó là câu hỏi dự báo một tình huống không vui Chúa Giêsu cảnh giác
cho các môn đệ. Có khi câu hỏi đó đợi chờ một lời đáp tích cực mở ra cho
lối sống đức tin lạc quan. Và biết đâu, câu hỏi đó lại chẳng tố giác
một thực trạng tiêu cực đang dần dà bào mòn niềm tin tôn giáo?
Nhưng đặt trong bối
cảnh của Chúa Nhật cầu cho việc truyền giáo, theo tinh thần của các bài
đọc, câu hỏi ấy đã ẩn chứa một lời giải đáp. Đó là: để lòng tin còn mãi
trên mặt đất, mọi thành phần của Dân Chúa cần phải sống tinh thần truyền
giáo.
1) Tinh thần truyền giáo ấy được nuôi dưỡng bằng sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động.
Nói đến truyền giáo
người ta thường nghĩ là phải dấn thân làm việc truyền giáo, và ai càng
làm được nhiều, người ấy lại càng được xem là nhà truyền giáo lớn. Thực
ra, quan niệm ấy cũng đúng, nhưng không đủ, bởi dù không phủ nhận những
kết quả lớn lao trong lịch sử Giáo Hội do hoạt động truyền giáo mang
lại, nhưng bao giờ cũng thế, bên trong những hoạt động ấy còn là cả một
tinh thần cầu nguyện tích cực của bản thân các nhà truyền giáo cũng như
của mọi thành phần Dân Chúa.
Thiếu cầu nguyện, hoạt
động sẽ không kết quả, hoặc sẽ lái kết quả sang một hướng khác có nguy
cơ “sáng danh tôi, tối Danh Chúa”. Vắng cầu nguyện, hoạt động có thể trở
thành nguy hại, nó đồng nghĩa với náo động nếu không muốn nói là khua
động ầm ĩ hoặc khuấy động ồn ào. Quên cầu nguyện, hoạt động chỉ là hời
hợt mang tính phong trào bùng lên đó nhưng rồi cũng lịm tắt đó. Bạo phát
bạo tàn, mau xộp mau xẹp! Bỏ cầu nguyện, hoạt động coi chừng chỉ còn là
một việc cá nhân, dẫu bỏ ra nhiều công sức, nhưng vẫn không phải là
hoạt động của Hội Thánh vốn luôn được nuôi dưỡng phong phú bởi nguồn ơn
Chúa Thánh Thần.
Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động truyền giáo. Nó đem đến cho những hoạt động một sức sống kín múc tận nguồn sứ mạng.
Bài đọc thứ nhất kể lại
một hình ảnh sống động cho thấy mối tương liên không thể tách rời giữa
việc Môsê giơ tay cầu nguyện và việc Giosuê đánh bại quân Amalếch. Khi
Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của ông Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông
giơ tay lên, phần thắng đã nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy không
riêng của Môsê hay riêng của Giosuê, mà là của Môsê cùng với Giosuê, là
dung hòa của cầu nguyện và hoạt động, là tổng hợp của ơn thánh Chúa và
nỗ lực con người.
Thánh nữ Têrêsa Hài
Đồng Giêsu đã được mừng kính vào đầu tháng mười này cũng là một hình ảnh
khác minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động truyền giáo.
Chín năm khuôn mình trong nhà kín Lisieux, chưa hề làm việc truyền giáo
bên ngoài, thế nhưng chỉ bằng hy sinh cầu nguyện cho các vị thừa sai và
cho công cuộc rao giảng Tin Mừng, thánh nữ đã được Giáo Hội đặt làm Bổn
Mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê một đời
bươn chải giảng giải đạo Chúa đến tận miền xa Châu Á.
Bản chất của Giáo Hội
là truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ Giáo Hội thôi
truyền giáo. Bốn phần năm dân số địa cầu chưa biết Chúa, nên Giáo Hội
phải truyền giáo đã đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết Chúa, Giáo
Hội cũng phải tái truyền giáo nữa. Xem như thế, truyền giáo vừa là sứ
mạng, vừa là số mạng, tức là sự sống còn của Giáo Hội. Và tinh thần
truyền giáo ấy một khi được hun đúc đều đặn bằng cầu nguyện và hoạt
động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô đến, Người vẫn thấy niềm tin
trên mặt đất.
2) Tinh thần truyền giáo ấy được thể hiện khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.
Được nuôi dưỡng bằng
cầu nguyện dung hòa với hoạt động cây truyền giáo nhất định sẽ vươn lên,
nhưng không thể không biết đến yếu tố thời tiết, mưa thuận gió hòa,
hoặc nắng hạn mưa giông. “Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống”, đó là
kinh nghiệm trồng cây. Song một cây lành như cây truyền giáo phải biết
chứng minh bằng phẩm chất của mình. Nói khác đi, tinh thần truyền giáo
cũng phải được chứng minh bằng chí bền sứ mạng, nghĩa là vừa kiên tâm
thực hiện những điều tốt, vừa kiên gan chịu đựng ngay cả những điều xấu
nữa (thánh Augustinô), phải bền chí khi thuận tiện cũng như khi không
thuận tiện.
Khi thuận tiện là khi
chí bền truyền giáo giúp ta tỉnh táo đừng để mất mình trong hoạt động
đến nỗi quên đi cầu nguyện, giúp ta phân biệt rõ ràng đâu là đóng góp
nhỏ nhoi của mình và đâu là ơn ban vô cùng to lớn của Thiên Chúa, và còn
mãi giúp ta không chạy theo những thành công trước mắt để sau này khỏi
phải trả giá đắng cay trắng tay thất vọng. Trong một chừng mực nào đó,
biết đâu lối sống của ông thẩm phán bạo ngược “chẳng kính sợ Thiên Chúa
mà cũng chẳng coi ai ra gì” trong bài Phúc Âm lại chẳng có vài tương
đồng với quan niệm háo thắng hoặc đắc thắng của cách truyền giáo thời
Trung cổ, vốn xem Kitô giới như một xã hội lý tưởng, nên cố mà đưa người
ta vào bằng chinh phục (truyền giáo) hoặc gắng mà ép người ta về bằng
cả chinh phạt nữa (thập tự chinh)?
Xem ra kiên tâm thực hiện những điều tốt trong truyền giáo vào thời thuận tiện cũng không ít vấn đề.
Khi không thuận tiện là
khi chí bền truyền giáo không chỉ giúp ta chịu đựng những khắc nghiệt
thường xuyên, mà còn giúp ta biết tận dụng hoàn cảnh để mà thanh luyện
tâm hồn. Nếu những hoạt động phải chấp nhận giới hạn ngoài ý muốn, thì
chí bền như một mạch điện tự động “kiểm soát lợi suất” sẽ bù lại những
giới hạn ấy bằng một thao thức phong phú của lời nguyện cầu. Và nếu như
hoàn cảnh cụ thể không cho phép có một hoạt động bên ngoài nào nữa, thì
vẫn còn đó mênh mông một phương tiện truyền giáo bằng gương sáng tình
mến, bằng chứng tá đức tin và bằng cách sống tốt đẹp đời Kitô của mình.
Điều đáng sợ không phải
là hoàn cảnh khắc nghiệt, mà là chính mình không đủ chí bền mà vượt qua
những khắc nghiệt ấy. Trong ý tưởng này, có lẽ rất thích hợp khi đặt
hình ảnh người đàn bà góa bụa của bài Phúc Âm, nhiều lần đến quấy rầy
ông thẩm phán mong được minh xét minh định minh oan, ở đây như một cổ võ
sống động cho chí kiên bền.
Và dầu hoàn cảnh thuận
tiện hay không (bài đọc thứ hai), chí truyền giáo thiết tưởng cũng là
biểu tỏ của niềm hy vọng, là tình mến khởi đi từ một đức tin sống động
vào Thiên Chúa là Cha nhân ái luôn muốn sự tốt lành trong ơn cứu độ cho
tất cả mọi người. Được như thế, chắc chắn khi Chúa Kitô trở lại vẫn thấy
niềm tin còn trên mặt đất trong chí bền của Giáo Hội là thân mình
Người.
Ước mong rằng suy nghĩ trên sẽ trở nên ý lực cho cuộc sống và trở nên ý nguyện trong Ngày Thế Giới Truyền Giáo hôm nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét