Viết bởi LM. Anthony Đinh Minh
Tiên, OP
Ngày 1 tháng 1, Lễ Mẹ Thiên Chúa,
Năm ABC
Bài đọc: Num 6:22-27; Gal 4:4-7;
Lk 2:16-21.
1/ Bài đọc I: 22 ĐỨC
CHÚA phán với ông Mô-sê:
23 "Hãy nói với
A-ha-ron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói
thế này:
24 "Nguyện ĐỨC CHÚA
chúc lành và gìn giữ anh (em)!
25 Nguyện ĐỨC CHÚA tươi nét
mặt nhìn đến anh (em) và dủ lòng thương anh (em)!
26 Nguyện ĐỨC CHÚA ghé mắt
nhìn và ban bình an cho anh (em)!
27 Chúc như thế là đặt con
cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho
chúng."
2/ Bài đọc II: 4 Nhưng
khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một
người đàn bà, và sống dưới Lề Luật,
5 để chuộc những ai sống dưới
Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.
6 Để chứng thực anh em là
con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà
kêu lên: "Áp-ba, Cha ơi! "
7 Vậy anh em không còn phải
là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên
Chúa.
3/ Phúc Âm: 16 Họ liền
hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm
trong máng cỏ.
17 Thấy thế, họ liền kể lại
điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.
18 Nghe các người chăn
chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên.
19 Còn bà Ma-ri-a thì hằng
ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
20 Rồi các người chăn chiên
ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy
tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
21 Khi Hài Nhi được đủ tám
ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là
Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai
trong lòng mẹ.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lời chúc
lành tốt đẹp nhất của Năm Mới.
Trong Ngày Đầu Năm, chúng ta có
thói quen chúc cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất, tùy vào những gì mà người
khác muốn nghe; chẳng hạn, đối với các thương gia: phú quí, thịnh đạt; đối với
các sinh viên sắp ra trường: thành công và thắng lợi trên đường công danh; đối
với nhà nông: mùa màng trù phú; đối với người bệnh: sức khỏe lành mạnh. Nhưng
đâu là lời chúc tốt đẹp và hòan hảo nhất của Ngày Đầu Năm? Các tín hữu tin đó
là lời chúc có được Thiên Chúa; lý do của niềm tin này: có Chúa là có tất cả. Hơn
nữa, chưa chắc có được những gì người khác chúc là đã tốt lành, chẳng hạn như được
trúng số mà gia đình tan nát; nhưng nếu được những gì Thiên Chúa ban, chắc chắn
sẽ tốt lành cho người lãnh nhận, vì Ngài biết con người cần gì.
Các Bài đọc của Ngày Đầu Năm tập
trung trong các ơn lành đến từ Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa dạy cho
Aaron biết cách chúc lành cho con cái Israel: phải nhân danh Thiên Chúa, phải
xin Thiên Chúa tươi mặt nhìn đến và dủ lòng thương, phải xin Thiên Chúa ghé mắt
nhìn đến và ban bình an. Trong Bài Đọc II, Thiên Chúa đã tỏ tình yêu của Ngài
qua Mầu Nhiệm Nhập Thể: Ngài không những giải thóat con người khỏi tội, ban cho
con người diễm phúc được làm nghĩa tử, và còn ban Thánh Thần để thúc đẩy con người
gọi Thiên Chúa là Abba, Cha ơi! Trong Phúc Âm, Thiên Chúa đã ban cho con người,
đại diện qua Thánh Giuse, Đức Mẹ Maria, và các Mục-đồng được nhìn thấy Mặt của
Thiên Chúa. Vì thế, khi con người có được Thiên Chúa, được Ngài đóai thương
nhìn tới, con người sẽ không còn thiếu một ân huệ nào nữa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lời chúc tốt đẹp
nhất: Xin Thiên Chúa đóai thương nhìn tới anh em!
1.1/ Phải nhân danh Thiên Chúa
mà chúc lành: Đức Chúa phán với ông Moses: "Hãy nói với Aaron và các con
nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Israel, anh em hãy nói thế này: "Nguyện
Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em!””
Theo truyền thống Do-Thái, tên
là người. Danh của Thiên Chúa, Yaweh, đồng nhất với lòng thương xót, sự tốt
lành, và sự bình an. Khi Thiên Chúa hiện ra với ông Moses, Người đã mặc khải
tên này cho Moses. Khi chúng ta lấy tên ai để kêu cầu, chúng ta muốn đặt những
lời cầu xin dưới sự bảo trợ của người đó; chẳng hạn, khi chúng ta kết thúc lời
cầu xin bằng câu: “chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen;” là
chúng ta đặt lời cầu dưới sự bảo trợ của Đức Kitô. Trong đọan văn hôm nay,
Thiên Chúa cũng bảo đảm điều này: “Chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền
bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.”
1.2/ Xin Thiên Chúa ghé mặt nhìn
tới: “Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em!
Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!" Truyền thống
Do-Thái tin: Chúa nhìn thấy con người, nhưng con người không thể nhìn thấy
Thiên Chúa. Ai nhìn thấy Thiên Chúa sẽ phải chết. Khi Chúa nhìn đến ai, người
đó được Ngài chúc lành; ví dụ, Mẹ Maria ca ngợi Thiên Chúa: “Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đóai thương nhìn tới.” Ngược lại, khi Thiên Chúa ngỏanh mặt đi, hay nhìn
đến với nét mặt không tươi, người đó bị chúc dữ.
2/ Bài đọc II: Chúa Giêsu làm
cho con người nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
2.1/ Thiên Chúa cho Con của Người
nhập thể để cứu chúng ta khỏi Lề Luật: “Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn,
Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề
Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa
tử.”
Tại sao phải cứu con người thóat
khỏi Lề Luật? Vì Lề Luật mà con người phạm tội, không chu tòan những gì Lề Luật
dạy. Hậu quả của tội là sự chết. Con người không thể nên công chính trước mặt
Thiên Chúa bằng Lề Luật. Để cứu con người thóat khỏi sự chết, hậu quả của Lề Luật,
Thiên Chúa đã cho Người Con nhập thể trong cung lòng một con người, Đức Mẹ
Maria, để sinh ra làm người. Chính Người Con này sẽ gánh tất cả tội cho con người;
vì thế, con người có thể trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa. Khi Người Con
cất đi mọi tội, Ngài đã vô hiệu hóa Lề Luật - làm cho Lề Luật không còn giam
hãm con người nữa.
2.2/ Thiên Chúa nhận chúng ta
làm nghĩa tử qua Chúa Giêsu: Không những chỉ giải phóng con người khỏi tội,
Chúa Giêsu còn ban cho con người muôn vàn ân phúc qua Mầu Nhiệm Nhập Thể. Thánh
Phaolô nói: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thánh Thần của
Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: "Abba, Cha ơi!" Vậy
anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người
thừa kế, nhờ Thiên Chúa.”
(1) Ơn làm con Thiên Chúa: Nhờ
Chúa Giêsu, con người trở thành những người con của Thiên Chúa bằng niềm tin
vào Đức Kitô, như Thánh Gioan nói: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin
vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra,
không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn
của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Jn 1:12-13). Đã là con, cũng là người
thừa kế. Con người được thừa hưởng tất cả những gì Thiên Chúa ban qua Đức Kitô,
nhất là ơn được sống đời đời.
(2) Các ơn của Chúa Thánh Thần:
Để có thể tin vào Đức Kitô, và gọi Thiên Chúa là Abba, Cha ơi! con người phải được
Chúa Thánh Thần tác động. Nếu đã có Thánh Thần, con người sẽ không thiếu những ơn
lành của Ngài, cách cụ thể là 7 ơn của Chúa Thánh Thần.
3/ Phúc Âm: Các Mục-đồng đến thờ
lạy Hài Nhi.
3.1/ Ba phản ứng của các Mục-đồng:
Sau khi được các Thiên-thần loan báo Tin Mừng, các Mục đồng đã đáp lại bằng 3
phản ứng:
(1) Họ đi tìm và đã thấy: Trình
thuật kể: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp Bà Maria, Ông Giuse, cùng với
Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ
về Hài Nhi này.” Con người chúng ta cũng phải hối hả và nhiệt thành như các Mục-đồng
trong việc tìm kiếm Thiên Chúa; vì nếu không lên đường đi tìm, làm sao chúng ta
có thể thấy Ngài được. Yếu điểm của nhiều người chúng ta là nhiệt thành tìm kiếm
mọi điều, nhưng không nhiệt thành trong việc tìm kiếm và học hỏi về Thiên Chúa.
Với một thái độ như thế, không lạ gì khi chúng ta vẫn còn xa cách Thiên Chúa vạn
dặm!
(2) Họ tôn vinh ca tụng tình yêu
Thiên Chúa: “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên
Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.”
Không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui của người đã cảm nghiệm được tình yêu
Thiên Chúa. Các Mục-đồng chắc chắn đã được Hài Nhi cho cảm nghiệm được tình yêu
này, khi họ chiêm ngắm Ngài. Chúng ta đã cảm nghiệm được tình yêu của Thiên
Chúa khi chiêm ngắm Hài Nhi trong máng cỏ chưa?
(3) Phải rao giảng và làm chứng
cho tình yêu này: “Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên.”
Một khi đã cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa, con người trở thành khí cụ ca
rao tình yêu của Thiên Chúa cho muôn người. Thánh Phanxicô Khó Khăn chỉ có thể
hát lên “Kinh Hòa Bình” sau khi đã cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho
ngài. Nếu các tín hữu đều phản ứng như các Mục-đồng hôm nay, chẳng mấy chốc mọi
con người trong thế giới này sẽ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa.
3.2/ Mẹ Maria ghi nhớ mọi kỷ niệm
ấy để suy đi nghĩ lại trong lòng: Một gương sáng Đức Mẹ dạy cho con người: đứng
trước Mầu Nhiệm Nhập Thể, chúng ta đừng nói nhiều, nhưng hãy ghi nhận mọi sự kiện
xảy ra và suy niệm trong lòng. Như một con người, có rất nhiều điều Mẹ có thể hỏi
và kêu ca trách Thiên Chúa trong ngày sinh của Chúa Giêsu; chẳng hạn: Con Thiên
Chúa mà lại sinh ra trong cảnh khó nghèo như vậy sao? Uy quyền của Thiên Chúa
đâu mà để cho Con Ngài mới sinh ra đã phải chạy nạn rồi? Không phải chỉ lúc
sinh con, nhưng trong suốt cả cuộc đời, Mẹ đã chứng kiến cuộc sống của Chúa
Giêsu: khi thì rất uy quyền làm các phép lạ như tại tiệc cưới Cana, khi thì cô
đơn bại trận như lúc sinh thì trên Thánh Giá. Mẹ có thể hỏi Thiên Chúa những lý
do tại sao, nhưng Mẹ đã chọn sự thinh lặng và hòan tòan tin tưởng vào Kế Họach
và tình yêu của Thiên Chúa cho gia đình Mẹ.
3.3/ Đặt tên cho con trẻ là
Jesus: Tên Jesus trong tiếng Do-Thái có nghĩa là “Jaweh cứu thóat,”
đó là tên mà Sứ-thần đã truyền đặt cho Người trước khi Người được thụ thai
trong lòng mẹ (Lk 1:31). Trong Cựu-Ước, cũng có một nhân vật mang tên này là Thủ
Lãnh Joshua. Ông được chọn để thay Moses mang dân vào Đất Hứa (Num 13:6). Giống
như Joshua, Chúa Giêsu cũng được Chúa Cha tuyển chọn để cứu nhân lọai khỏi tội,
và mang họ đế cuộc sống đời đời trên Thiên Đàng. Khi ban cho chúng ta Chúa
Giêsu, Thiên Chúa đã sống đúng với Danh của Ngài là Thiên Chúa Thương Xót.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trong Ngày Đầu Năm, chúng ta
hãy dùng danh Đức Kitô mà chúc cho nhau được Thiên Chúa đóai thương nhìn tới.
- Vì Thiên Chúa đóai thương, nên
Người ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài, để gánh tội và để cho chúng ta
thành những người con của Ngài.
- Thuở xưa, con người không được
phép nhìn mặt Thiên Chúa; nhưng qua Biến Cố Nhập Thể, con người có thể chiêm ngưỡng
dung nhan Thiên Chúa qua khuôn mặt của Chúa Hài Nhi.
- Với nền kinh tế bấp bênh của
thế giới và của quốc gia chúng ta đang định cư, chúng ta không biết tương lai sẽ
thế nào; nhưng chúng ta biết chắc chắn một điều: “những người được Thiên Chúa
đóai thương, sẽ chẳng thiếu chi những điều tốt lành và bình an.”
- Cầu chúc quí khán giả khắp nơi
luôn hăng hái nhiệt thành trong việc học hỏi Lời Chúa, và luôn sống trong tình
yêu và ơn thánh của Ngài. Chúng con cầu xin nhờ Danh Đức Kitô, Chúa chúng con.
Amen.
Chia sẻ của Lm Lê minh Thông
Đoạn Tin Mừng Lc 2,6b-20 vẽ lên
ba bức tranh chính: (1) Đức Ma-ri-a hạ sinh Đức Giê-su ở Bê-lem. (2) Chuyện những
người chăn chiên được báo tin và tìm đến gặp Hài Nhi. (3) Lời ca ngợi Thiên
Chúa của các sứ thần.
Xin chia sẻ câu chuyện về những
người chăn chiên trong bức tranh thứ hai, liên quan đến các động từ “nghe”, “thấy”,
“nói” và “tôn vinh Thiên Chúa”. Có thể hành trình của những người chăn chiên cũng
là hành trình trở thành môn đệ Đức Giê-su qua mọi thời đại.
Bức tranh về nhân vật những người
chăn chiên thật sinh động. Sứ điệp mà sứ thần dành cho những người chăn chiên
là audio-visuel, nghĩa là vừa nghe bằng tai vừa thấy bằng mắt.
Trước hết những người chăn chiên
thấy sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả, khiến họ kinh
khiếp hãi hùng (2,9). Kế đến là họ nghe lời sứ thần với hai ý. Một là báo tin
vui: Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít. Thứ đến là dấu
chỉ để nhận ra Hài Nhi: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong
máng cỏ” (2,12). Như thế, lời loan báo của sứ thần không phải chỉ để nghe cho
biết, nhưng là một sứ điệp có khả năng biến “sợ hãi” thành “niềm vui”, có khả
năng biến “lời nói” thành “hành động”: đứng dậy và lên đường.
Đáp trả lời mời gọi, những người
chăn chiên bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như
Chúa đã tỏ cho ta biết” (2,15). Họ đã “gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài
Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (2,16) như lời sứ thần loan báo. Nhờ kiểm chứng “lời
đã nghe” bằng “mắt” đã thấy”, những người chăn chiên xác tín sự kiện đã xảy ra,
từ đó trình thuật chuyển sang đề tài đối thoại với ba khía cạnh:
1) Đối thoại với người khác. Những
người chăn chiên đã kể lại những điều họ đã nghe sứ thần Chúa nói với mình về
Hài Nhi.
2) Đối thoại với chính mình qua
hình ảnh Đức Ma-ri-a hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Tự đối thoại với chính mình bằng cách sống với biến cố, tự đặt câu hỏi và tìm
câu trả lời để hiểu ý nghĩa của biến cố.
3) Đối thoại với Thiên Chúa bằng
cách “tôn vinh và ca tụng” (2,20) như những người chăn chiên đã làm.
Câu kết cho thấy điểm nhấn của
câu chuyện: “Các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên
Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ”
(2,20). Nhắc lại những gì đã thấy và lời loan báo để kết câu chuyện, làm lộ ra
ý nghĩa trình thuật nhắm tới:
Thấy vinh quang Chúa, nghe tin
vui và dấu chỉ của sứ thần, vội vã lên đường; khi đã gặp thì kể cho mọi người
biết và rồi lại ra đi tôn vinh Thiên Chúa.
Đó là hành trình của người tin,
hành trình trở thành môn đệ Đức Giê-su. Nghe, biết, đón nhận, tin vào Người để
rồi ra đi chia sẻ cho người khác và không ngừng ca tụng tình thương của Thiên
Chúa dành cho loài người.
Người chăn chiên là hạng người
thấp nhất trong xã hội, nhưng họ lại là người được loan báo tin vui trước hết.
Không những Thiên Chúa không loại trừ một ai mà Người còn dành ưu ái cho hạng
người thấp nhất trong xã hội. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ thất vọng về chính
mình hay nghĩ là Chúa bỏ rơi mình. Thực ra, chỉ có con người bỏ rơi Thiên Chúa
chứ Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người.
Đoạn Tin Mừng Lc 2,6b-20 gợi lại
hành trình trở thành người môn đệ và hành trình sứ vụ của chúng ta. Xin cho
chúng ta biết cách nhìn để thấy những gì đã và đang xảy ra trong lịch sử; biết
cách lắng nghe Lời mặc khải để đón nhận tin vui trọng đại cho loài người, để từ
đó xác tín và lên đường, hân hoan loan báo tin vui và cất lời ca tụng Thiên Chúa
như những người chăn chiên đã làm. Để được như thế, ước gì chúng ta luôn suy đi
nghĩ lại trong lòng giáo huấn của Đức Giê-su trong suốt hành trình làm người,
như Mẹ đã làm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét