VRNs (09.08.2014) –
Melbourne Úc Đại Lợi – Ngành giáo dục đã trải qua ba lần cải cách, nhưng vì vẫn
điều hành lối cũ nên càng cải cách càng rơi vào khủng hỏang. Từ góc
nhìn kinh tế muốn tạo cạnh tranh, tạo công bằng và hiệu quả giáo dục cần
được tư thục hóa.
Giáo Dục Là Công Việc Nhà Nho
Tổ chức giáo dục thời xưa được học
giả Đào Duy Anh ghi lại trong quyển Việt Nam Văn Hóa Sử Cương như sau:
“Ở mỗi huyện có quan Huấn đạo, mỗi
phủ có quan Giáo thụ, dạy Tứ Thư Ngũ Kinh cho học trò khá. Ở mỗi tỉnh có quan Đốc
học dạy các sinh đồ cao đẳng. Ở Kinh đô có trường Quốc tử giám. Các vị học quan
kể trên đều ở dưới quyền giám đốc của bộ Lễ hoặc bộ Học. Trong dân gian thì xưa
nay việc học vẫn hoàn toàn tự do. Thầy học thì có thầy khóa, thầy đồ, thầy tú dạy
trẻ con, cho đến bậc đại khoa không xuất chính, hay các quan trí sĩ, có người dạy
đến trăm nghìn học trò.”
Giáo dục có thể xem như là công
việc của nhà nho hơn là của quốc gia. Trường học thì phần lớn là nhà riêng của
thầy nho, hoặc ở chùa, đình, miễu hay nhà một người giàu có trong làng. Các thầy
nho hòan tòan độc lập với công quyền. Họ không được tài trợ và cũng không bị kiểm
soát đôn đốc bởi bất cứ cơ quan nào.
Sang Thời Pháp Thuộc
Giáo dục thời Pháp nhằm đào tạo
một số người biết tiếng Pháp, biết Quốc Ngữ, có đôi chút hiểu biết để ra làm
công chức, làm thông dịch phục vụ cho người Pháp. Mục tiêu xa là đồng hóa người
bản xứ biến họ thành những người Pháp về phương diện văn hóa.
Để thực hiện các mục tiêu nêu
trên, người Pháp đã mở rộng 1 hệ thống giáo dục công lập rộng khắp Đông Dương.
Đồng thờitừ mục tiêu truyền giáo một số trường tư do giáo hội Thiên Chúa
Giáo cũng đã xây dựng và điều hành.
Sau năm 1930 một số tư thục do
tư nhân mở ra ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và ở một vài tỉnh lỵ lớn đa số là các trường
bậc Tiểu Học. Bậc Cao Đẳng Tiểu Học chỉ có ở Hà nội, Huế và Sài gòn.
Bậc Tú Tài chỉ có ở Hà Nội và Sài Gòn.
Nhà nho vẫn được tiếp tục vai
trò giáo dục. Nhưng theo quyết định của Toàn Quyền Paul Beau năm 1906-07 thì
các thầy đồ, thầy khóa ở xã thôn, các quan giáo huấn, đốc học ở phủ, huyện, tỉnh,
ngoài việc dạy chữ Hán phải dạy thêm chữ Quốc Ngữ.
Khi Đông Kinh Nghĩa Thục được
thành lập, người Pháp đã không ngăn cấm hoạt động. Người Pháp chỉ giải tán khi
biết được đằng sau Nghĩa Thục là phong trào chống lại thực dân.
Tư Thục Trong Nền Giáo Dục Miền
Nam
Giáo dục miền Nam nhằm đào tạo
những công dân tốt có khả năng phụng sự xã hội. Vì vậy vai trò của chính phủ là
làm sao tạo được sự công bằng và hiệu quả trong việc đầu tư cho giáo dục.
Chiến lược giáo dục miền Nam đựơc
nêu rõ trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa: (1) Quốc Gia công nhận quyền tự do
giáo dục, (2) nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí, (3) nền
giáo dục Đại Học được tự trị, (4) những người có khả năng mà không có phương tiện
sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn và giáo dục, và (5) một ngân sách thích
đáng phải được dành cho việc phát triển văn hóa giáo dục.
Để thực hiện những mục tiêu trên
chính phủ miền Nam đã chia sẻ trách nhiệm với các thành phần khác trong xã hội.
Những con số dưới đây có thể nói lên được phần nào sự phát triển của hệ thống
tư thục trước đây.
Năm 1964 có chừng 435 ngàn học
sinh tiểu học chiếm 28 phần trăm tổng số học sinh tiểu học đã được giáo dục tại
các trường tư thục. Đến năm 1970 con số tăng lên 452 ngàn nhưng tỉ lệ đã giảm
xuống chỉ còn 18 phần trăm.
Ở bậc trung học cả tỉ lệ lẫn số
lượng học sinh đều liên tục gia tăng. Nếu năm 1964 các trường tư thục thu nhận
181 ngàn học sinh hay 62 phần trăm tổng số học sinh, thì đến năm 1970 con số
tăng gần ba lần lên đến 484 ngàn học sinh chiếm tỉ lệ 78 phần trăm tổng số học
sinh trung học.
Về giáo dục đại học, 6 Viện đại
học tư thục cũng đã được thành lập với chừng 40 ngàn sinh viên tốt nghiệp.
Nhận thức giáo dục cơ bản mang lại
công ích xã hội cao nhất nên chính quyền miền Nam đã tập trung ngân sách quốc
gia cho giáo dục tiểu học. Học sinh công lập được hòan tòan miễn phí. Ở bậc tiểu
học học sinh còn được ăn bánh mì và uống sữa miễn phí. Sách giáo khoa bậc tiểu
học cũng được phát không.
Các trường tư nhờ cạnh tranh nên
học phí thấp và phẩm chất giáo dục cũng không mấy chênh lệch. Bởi thế đa số trẻ
em miền Nam đều được đến trường ăn học.
Nhờ chia sẻ trách nhiệm với tư
nhân, phía chính phủ đã chu cấp một đời sống căn
bản cho giáo chức và các công chức trong ngành giáo dục. Nhờ đó miền Nam đã xây dựng được một nền giáo dục có giá trị ngang tầm quốc tế.
bản cho giáo chức và các công chức trong ngành giáo dục. Nhờ đó miền Nam đã xây dựng được một nền giáo dục có giá trị ngang tầm quốc tế.
Đến năm 1975, hằng ngàn trường
tư thục và các viện đại học đã bị tịch thu và nhập vào hệ thống giáo dục Xô Viết.
Hệ thống này đến nay cũng không mấy thay đổi vẫn độc quyền và chính trị hóa
giáo dục.
Trường Công Đã Biến Thành Trường
Tư
Ngân sách cho giáo dục hiện nay
đã lên đến 20 phần trăm tổng ngân sách quốc gia. Nhưng vì phải trải rộng cho
tòan ngành, thiếu cạnh tranh và hiệu quả, nên các cơ sở học đường đều nghèo
nàn, xuống cấp, lương giáo viên không đủ sống, có địa phương thiếu lương trả
giáo viên,… chưa kể đến tình trạng tham nhũng tràn lan khắp ngành giáo dục.
Các trường công lập cũng thâu học
phí và nhiều khỏan phí khác gây không ít khó khăn cho phụ huynh học sinh. Trường
công đã trở thành trường tư.
Một vài trường tư được thành lập
nhưng vì thiếu môi trường cạnh tranh lành mạnh, thiếu học sinh, nên học phí quá
cao. Gia đình trung lưu cũng không đủ khả năng cho con em theo học.
Theo thông tư hướng dẫn thực hiện
Nghị định số 49/2010/NĐ-CP, kể từ ngày 15/7/2014 các học sinh tiểu học công lập
sẽ không phải đóng học phí. Thông tư không nói các lệ phí khác có được miễn hay
không? Không thu được học phí, ngân sách lấy gì bù đắp và thực tế sẽ ra sao?
Tư thục hóa nền giáo dục Việt
Nam
Các sinh viên đại học sau vài
năm theo học sẽ có công ăn việc làm. Họ sẽ có lợi tức và có khả năng hòan trả
các chi phí giáo dục. Người có giáo dục đại học lại thường dễ thay đổi nghề
nghiệp và có nhiều khả năng xuất ngọai.
Vì thế một nước chậm phát triển
như Việt Nam thay vì đầu tư cho giáo dục Đại Học nên để các khỏan ngân sách cho
việc đầu tư vào giáo dục bậc tiểu học.
Cuộc hội thảo về cải cách giáo dục
Đại Học do Nhóm đối thoại giáo dục và Lãnh sự quán Hoa Kỳ vừa tổ chức cho thấy
việc tự trị đại học được xem như là giải pháp để thúc đẩy việc cải cách giáo dục
đại học Việt Nam. Có điều các diễn giả không nói rõ tự do chính trị và tự do
giáo dục chính là căn bản của một nền đại học tự trị.
Quyền tự trị đại học đã được nêu
rõ trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa. Miền Nam không có Bộ Đại Học. Bộ Giáo dục
chỉ có một thứ trưởng đặc trách giáo dục đại học, công việc của vị này chủ yếu
là lo thực thi những chính sách và ngân sách giáo dục đại học.
Đại học tự trị về học vụ, tài
chính và điều hành. Các hội đồng ở cấp viện đại học và cấp trường đại học (hay
phân khoa) có quyền thảo luận và quyết định mà không phải trình báo hay xin chỉ
thị từ bất cứ ai. Các Khoa trưởng không do Bộ Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo
sư của Hội đồng Khoa bầu lên.
Khi Đại Học chưa được quyền tự
trị thì khó có sự cạnh tranh công bằng giữa đại học công và tư. Một bên đã có
nhà nước bảo hộ phía bên kia cần lợi nhuận để tiếp tục duy trì và phát triển.
Thiếu cạnh tranh thì khó có thể nâng cao được phẩm chất của nền giáo dục.
Cũng trong thời gian qua, tranh
chấp diễn ra tại đại học tư thục Hoa Sen xoay quanh việc ai quyết định chiến lược
và thành quả của chiến lược thuộc về ai? Cuộc tranh chấp nhằm chọn giữa hai phương
cách quản lý đại học: vụ lợi hay vô vụ lợi.
Tổ chức vô vụ lợi (phi lợi nhuận)
họat động không vì lợi nhuận nhưng về lâu dài việc quản lý cũng cần có thặng dư
để tái đầu tư và phát triển. Ở các nước Tây Phương các tổ chức vô vụ lợi họat động
trong ngành giáo dục được khuyến khích bằng cách miễn thuế lợi tức. Các cá nhân
hay công ty đóng góp cho các tổ chức giáo dục vô vụ lợi cũng được khai giảm thuế
lợi tức hằng năm.
Để khuyến khích phát triển giáo
dục tư thục, ngòai việc chính phủ cấp học bổng hay ngân sách cho đại học cả tư
lẫn công, có quốc gia còn cho các sinh viên vay tiền học phí và chỉ hòan trả lại
khi họ đã có công ăn việc làm vững chắc.
Nhiều quốc gia miễn thuế cho các
dịch vụ thuộc về giáo dục. Có quốc gia còn khấu trừ thuế lợi tức các chi tiêu
cá nhân hay công ty đầu tư cho việc giáo dục và đào tạo.
Chính phủ cũng cần tạo mọi cơ hội
để các trường đại học tư thục được sự giúp đỡ của chính phủ các nước, các tổ chức
quốc tế, các công ty liên quốc, các cộng đồng hải ngọai và các mạnh thường quân
quan tâm đến giáo dục.
Dựa trên căn bản chiến lược,
chính sách và luật pháp quốc gia, các trường đại học tư thục có tòan quyền quyết
định giữa tổ chức quản lý đại học bằng cách vụ lợi hay vô vụ lợi.
Các trường tiểu học và trung học
tư thục, việc điều tài chính và quản lý tùy thuộc vào
Ban Quản Trị nhà trường. Bộ Giáo Dục chỉ quy định chương trình và giám sát phẩm chất giáo dục các trường.
Ban Quản Trị nhà trường. Bộ Giáo Dục chỉ quy định chương trình và giám sát phẩm chất giáo dục các trường.
Ngày nay hầu hết các quốc gia
trên thế giới đã tư thục hóa nền giáo dục của họ. Nhiều nước như Úc còn xem
giáo dục như mặt hàng xuất khẩu chiến lược.
Trong khi ấy nền giáo dục Việt
Nam vẫn lệ thuộc vào tư tưởng giáo dục kiểu Xô Viết trước đây, khi tự do chính
trị và tự do giáo dục chưa có, mọi cải cách đều không mang lại kết quả, nền
giáo dục càng ngày càng suy thóai, dẫn đến khủng hỏang xã hội.
Năm 1945, chỉ trong vòng vài
tháng chính phủ Trần Trọng Kim đã hòan thành cuộc cách mạng giáo dục lần thứ nhất
chuyển chương trình giáo dục từ Pháp ngữ sang Việt ngữ. Xây dựng giáo dục trên
ba nguyên tắc: dân chủ, dân tộc, khoa học và lấy lý tưởng phụng sự quốc gia làm
tôn chỉ.
Giáo dục gắn liền với phát triển
quốc gia, bởi thế muốn đưa đất nước đi lên chúng ta cần sửa sọan tư tưởng sẵn
sàng lấy việc tư thục hóa làm nền tảng cho cuộc cách mạng giáo dục lần này.
Nguyễn Quang Duy
—-
Bài liên quan
Nguyễn Quang Duy (3-2014) Giáo dục Việt Nam: cố sửa hay trở về gốc?
Nguyễn Quang Duy (4-2014) Ưu việt của giáo dục miền Nam
Nguyễn Thanh Liêm, Nền giáo dục ở miền nam 1954-1975
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét