1. Chúa Giêsu luôn luôn đi trước chúng ta. Ngài đi trước và dẫn đường cho chúng ta.Trong
Công Nghị Tấn Phong Hồng Y đầu tiên trong triều giáo hoàng của ngài,
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nâng lên hàng Hồng Y 19 giám chức của Giáo Hội
lúc 11 giờ sáng ngày thứ Bẩy 22 tháng Hai nhân lễ Tông Tòa Thánh Phêrô.
Vào
lúc bắt đầu buổi lễ diễn ra trong Đền Thờ Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha
Phanxicô đã nồng nhiệt chào đón Đức Thánh Cha danh dự Bênêđíctô thứ 16.
Vị tiền nhiệm của ngài đã ngồi ngay bên cạnh các Hồng Y sắp được tấn
phong.
Cộng đoàn đã nghe tuyên đọc bài Tin Mừng theo thánh Máccô
đoạn 10 từ câu 32 đến câu 45 thuật lại hành trình của Chúa Giêsu cùng
với 12 Tông đồ lên Giêrusalem, qua đó Chúa loan báo cho các ông: Con
Người sẽ bị nộp cho các Thượng Tế và luật sĩ, bị kết án tử hình và giao
cho dân ngoại, để chịu cực hình và hành quyết, nhưng ngày thứ ba Người
sẽ sống lại. Nhưng Tông Đồ Giacôbê và Gioan xin Chúa cho được ngồi bên
tả và bên hữu; và trước sự phẫn nộ của các Tông Đồ khác, Chúa dạy các
môn đệ “Ai muốn trở thành người cao trong trong các con, thì hãy thành
người phục vụ, ai muốn trở thành người thứ nhất trong các con, thì hãy
trở thành tôi tớ cho mọi người”.
Trong bài giảng Đức Thánh Cha nói:
Tại
thời điểm này cũng vậy, Chúa Giêsu đang đi trước chúng ta. Ngài luôn
luôn đi trước chúng ta. Ngài đi trước và dẫn đường cho chúng ta. Đây là
nguồn mạch của niềm tự tin và niềm vui của chúng ta để trở thành môn đệ
của Ngài, ở lại với Ngài, đi phía sau Ngài và dõi theo bước chân Ngài.
Khi
chúng ta hiệp nhau để đồng tế Thánh Lễ đầu tiên tại nhà nguyện Sistina,
từ ngữ đầu tiên Chúa đề xuất với chúng ta là "bước theo", là hành trình
cùng với Ngài, và sau đó là xây dựng và tuyên xưng.
Hôm nay từ
ngữ này cũng được lặp lại, nhưng giờ đây là một hành động, một hành động
Chúa Giêsu đang thực hiện: "Ngài đang tiến bước... " . Đây là một điểm
nổi bật trong các sách Phúc Âm: Chúa Giêsu thường xuyên vừa tiến bước
vừa dạy dỗ các môn đệ trên đường đi. Điều này là rất quan trọng. Chúa
Giêsu không đến để dạy một triết lý, một ý thức hệ ... mà là "một con
đường", một cuộc hành trình được thực hiện với Ngài, và chúng ta học con
đường này trong khi chúng ta tiến bước. Vâng, anh em thân mến, thật là
niềm vui khi được cùng đi với Chúa Giêsu.
Nhưng điều này không dễ
dàng, hay thoải mái, vì đường lối Chúa Giêsu chọn con là đường Thánh
Giá. Khi đi đường cùng nhau, Ngài nói với các môn đệ những gì sẽ xảy ra
tại Giêrusalem: Ngài báo trước cuộc thương khó, cái chết và sự Phục sinh
của Ngài. Và họ “kinh hoàng” và “đầy sợ hãi”. Họ bị kinh hoàng, chắc
chắn rồi, vì đối với họ lên Giêrusalem có nghĩa là chia sẻ vinh quang
chiến thắng của Đấng Cứu Thế, trong cuộc khải hoàn của Ngài - chúng ta
thấy rõ điều này trong yêu cầu của Thánh Giacôbê và Thánh Gioan. Nhưng
họ cũng đầy sợ hãi vì những gì sắp xảy ra với Chúa Giêsu, và vì những gì
bản thân họ có thể phải gánh chịu.
Không giống như các môn đệ
những ngày đó, chúng ta biết Chúa Giêsu đã chiến thắng, và chúng ta
không cần phải lo sợ Thánh Giá. Thật vậy, Thánh Giá là hy vọng của chúng
ta. Tuy nhiên, chúng ta tất cả cũng đều là con người, những người tội
lỗi, bị cám dỗ để nghĩ như loài người, không phải như Chúa.
Và
một khi chúng ta chạy theo lối nghĩ của thế gian, những gì sẽ xảy ra? "
Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan"
(Mc 10:41 ). Họ phẫn nộ. Bất cứ khi nào một não trạng thế tục chiếm ưu
thế, kết quả là sự cạnh tranh , ganh tị, và phe phái ...
Và vì
thế, những lời Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay là bổ ích nhất. Nó
thanh tẩy chúng ta tự thâm tâm, nó soi sáng lương tâm chúng ta và giúp
chúng ta hiệp nhất hoàn toàn với Chúa Giêsu, và làm như thế cùng với
nhau, tại thời điểm này khi Hồng Y Đoàn được mở rộng với sự gia nhập của
các thành viên mới .
"Ðức Giêsu gọi các ông lại ... " (Mc 10:42)
. Đây là hành động khác của Chúa Giêsu. Trên đường đi, Ngài nhận thức
rằng cần phải nói chuyện với Nhóm Mười Hai, Ngài dừng họ lại và gọi họ
đến với mình. Anh em, chúng ta hãy để cho Chúa Giêsu gọi cho chúng ta
đến với Ngài! Chúng ta hãy để Ngài "triệu tập". Và chúng ta hãy lắng
nghe Ngài, với niềm vui xuất phát từ việc đón nhận Lời Ngài với nhau, để
Lời Ngài và Thánh Thần giáo huấn chúng ta, và để trở nên một trái tim
và linh hồn hơn bao giờ, khi quy tụ xung quanh Ngài.
Và khi chúng
ta được "triệu tập", được gọi đến với Ngài bởi cùng một Thầy, tôi cũng
sẽ nói với anh em về những điều Giáo Hội cần: Giáo Hội cần anh em, cần
sự hợp tác của anh em, và hơn thế nữa là sự hiệp thông, hiệp thông với
tôi và với chính anh em. Giáo Hội cần sự can đảm của anh em, để rao
giảng Tin Mừng tại mọi thời điểm, cả lúc thuận lợi cũng như trong gian
truân, để làm chứng cho sự thật. Giáo Hội cần lời cầu nguyện của anh em
cho sự tiến bộ của đàn chiên Chúa Kitô, lời cầu nguyện đó, cùng với việc
công bố Lời Chúa, là nhiệm vụ chính của các Giám mục Giáo Hội cần lòng
từ bi của anh em, đặc biệt là vào thời điểm nhiều đau khổ và chịu đựng
này của rất nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Chúng ta muốn bày tỏ sự
gần gũi tinh thần với các cộng đồng Giáo Hội và với tất cả các Kitô hữu
bị bách hại và phân biệt đối xử. Giáo Hội cần lời cầu nguyện của chúng
ta cho họ, để họ được kiên vững trong đức tin và có thể đáp trả lại sự
dữ bằng sự tốt lành. Và lời cầu nguyện của chúng ta cũng hướng đến mỗi
người nam nữ đang phải đau khổ một cách bất công chỉ vì niềm tin tôn
giáo của họ
Giáo Hội cũng cần đến chúng ta như những nhà kiến tạo
hòa bình, xây dựng hòa bình bằng lời nói, bằng hy vọng và bằng lời cầu
nguyện: do đó, chúng ta hãy cầu khẩn hòa bình và hoà giải cho những dân
tộc đang phải gánh chịu bạo lực và chiến tranh.
Cảm ơn anh em
thân yêu. Chúng ta hãy cùng nhau bước theo Chúa, và chúng ta hãy luôn
luôn để mình được gọi lại với Ngài, cùng với nhau, trong lòng dân tộc
trung tín của Ngài, là Mẹ Hội Thánh của chúng ta.
2. Đức tin không đem lại hành động cụ thể thì không phải là đức tin"Một
đức tin không sinh hoa kết quả nơi các hành động thì không phải là đức
tin." Đây là lời khẳng định của Đức Thánh Cha Phanxicô hôm thứ Sáu 21
tháng Hai tại nhà nguyện Santa Marta trong thánh lễ đồng tế với các vị
Hồng Y đang tham dự Công Nghị Hồng Y Ngoại Thường. Ý chỉ trong thánh lễ
này là mừng sinh nhật thứ 90 của Đức Hồng Y Silvano Piovanelli, Tổng
Giám Mục Hiệu Tòa Florence. Đức Thánh Cha đã cảm ơn Đức Hồng Y
Piovanelli vì "công việc của ngài, chứng tá và lòng nhân hậu của ngài."
Thế
giới này đầy dẫy các Kitô hữu đọc thuộc lòng Kinh Tin Kính, nhưng rất
ít khi đưa những lời kinh này vào thực hành - và cũng có các học giả
uyên bác giản lược thần học vào một loạt những lý thuyết gọn gàng ngăn
nắp, trong khi loại bỏ triệt để bất kỳ ảnh hưởng nào của thần học trên
cuộc sống thực. Đó là mối nguy hiểm mà Thánh Giacôbê lo sợ từ cả hai
ngàn năm trước, và đó cũng là chủ đề mà Đức Thánh Cha Phanxicô muốn đưa
ra với các tín hữu sau đọc bài đọc trích từ thư Thánh Giacôbê trong đó
có những đoạn như: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không
hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? ...Đức tin không có hành
động thì quả là đức tin chết...Anh em thấy đó, nhờ hành động mà con
người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi.”
Đức Thánh Cha nói:
"Chúng
ta cũng phạm sai lầm khi nói: ‘Nhưng tôi có rất nhiều niềm tin, và tôi
tin tất cả mọi thứ, tất cả mọi thứ - nhưng người nói như thế lại có một
cuộc sống thờ ơ, yếu ớt. Đức tin của người ấy là một thứ lý thuyết,
không sống động trong cuộc đời. Thánh Tông Đồ Giacôbê khi nói về đức
tin, đã nói chính xác về đạo lý, về những gì hình thành nội dung của đức
tin. Một người dù có thể thuộc tất cả các điều răn, tất cả những lời
tiên tri, tất cả các chân lý đức tin, nhưng nếu không đưa vào thực hành,
thể hiện nơi hành động cụ thể thì chỉ là vô ích. Về mặt lý thuyết,
chúng ta có thể đọc Kinh Tin Kính, thậm chí ngay cả khi không có đức
tin, và có rất nhiều người làm như vậy - ngay cả ma quỷ. Ma quỷ biết rất
rõ những gì được đề cập trong Kinh Tin Kính và chúng biết đó là sự
thật."
Những lời của Đức Thánh Cha vang vọng khẳng định của
Thánh Giacôbê: "Anh chị em tin có một Thiên Chúa duy nhất phải không?
Đúng lắm. Ma quỷ cũng tin, và run sợ".
Đức Thánh Cha nói thêm
rằng sự khác biệt là ma quỷ không có “đức tin đích thực”, chúng chỉ có
“kiến thức”. Đức tin chân thực có nghĩa là đón nhận thông điệp của Thiên
Chúa từ Chúa Kitô.
Đức Thánh Cha nói tiếp là Tin Mừng đã đề cập
đến hai dấu chỉ rõ rệt của những người “biết điều gì đáng tin, nhưng
lại không có đức tin” Dấu hiệu đầu tiên là xu hướng “luật sĩ” đại diện
bởi những người hỏi Chúa Giêsu có nên nộp thuế cho Cêsarê hay không, và
những kẻ thắc mắc về câu chuyện người phụ nữ góa chồng đã lần lượt kết
hôn với bảy anh em. Dấu chỉ thứ hai là xem đức tin như một thứ “ý thức
hệ”. Đó là những Kitô hữu xem đức tin như một hệ thống các ý tưởng có
tính lý thuyết. Ngay vào thời của Chúa Giêsu cũng có những kẻ như thế.
Thánh Tông Đồ Gioan nói họ là những phản Kitô, những kẻ uốn nắn đức tin
theo những dấu ấn ý thức hệ mà họ đã từng theo đuổi. Vào thời điểm đó,
có những kẻ theo phái Ngộ Đạo, nhưng sẽ luôn có và có rất nhiều những
Kitô hữu rơi vào nhóm “luật sĩ” hay nhóm ý thức hệ, là những kẻ biết đến
đạo lý Kitô, nhưng không có đức tin, y hệt như ma quỷ. Cái khác biệt là
ma quỷ còn biết run sợ chứ các Kitô hữu này thì không, họ cứ tỉnh bơ
sống an nhiên tự tại.
Đức Thánh Cha đã nhắc nhớ đến những ví dụ
trong các sách Tin Mừng về "những người không biết đạo lý, nhưng có rất
nhiều niềm tin." Ngài đề cập đến câu chuyện của người phụ nữ xứ Canaan,
đã làm Chúa xúc động trước đức tin của bà và Ngài đã chữa lành cho đứa
con gái bị quỷ ám của bà; và người phụ nữ Samaria là người mở lòng ra
bởi vì, "cô ấy đã không gặp gỡ với những chân lý trừu tượng", nhưng
chính là gặp gỡ "Chúa Giêsu Kitô. " Sau đó, là người mù được Chúa Giêsu
chữa lành đã phải đối diện với sự thẩm vấn dai dẳng của những người Biệt
Phái và các luật sĩ cho đến khi ông quỳ xuống với sự khiêm nhường và
tôn vinh người đã chữa lành cho ông. Ba người này cho thấy đức tin và
chứng tá là không thể tách rời.
Đức tin là một cuộc gặp gỡ với
Chúa Giêsu Kitô, với Thiên Chúa, từ đó đức tin được sinh ra, và từ đó
đưa ta đến với chứng tá. Đó chính là những gì thánh Tông Đồ Giacôbê muốn
nói Đức tin không có hành động, một đức tin không lôi cuốn toàn con
người ta, thì không phải là đức tin. Đó là những từ ngữ - và chỉ là
những từ ngữ.
3. Chúa Giêsu là ai đối với chúng ta?Trong
thánh lễ sáng thứ Năm 20 tháng Hai tại nhà nguyện Santa Marta với các
Hồng Y đang tham dự Công Nghị Hồng Y Ngoại Thường và đặc biệt với sự
tham dự của nữ tu Candida Bellotti, người nữ tu già nhất thế giới được
mời tham dự thánh lễ nhân ngày sinh nhật thứ 107 của bà, Đức Thánh Cha
Phanxicô đã trình bày những suy tư của ngài về bài Tin Mừng thuật lại
tình cảnh bẽ bàng của thánh Phêrô.
Ðức Giêsu và các môn đệ của
Người đi tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Người hỏi các
môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai?" Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là ông
Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ
nào đó". Người lại hỏi các ông: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?"
Ông Phêrô trả lời: "Thầy là Ðấng Kitô". Ðức Giêsu liền cấm ngặt các ông
không được nói với ai về Người.
Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông
biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng
kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Người nói rõ
điều đó, không úp mở. Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách
Người. Nhưng khi Ðức Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người trách
ông Phêrô: "Xatan ! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không
phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người". (Mc 8: 27-33).
Đức Thánh Cha nói:
"Trước
câu hỏi vang lên từ con tim chúng ta: ‘Chúa Giêsu là ai đối với chúng
ta?’, những điều chúng ta đã biết, những điều chúng ta đã học xem ra là
chưa đủ. Học hỏi và hiểu biết là điều quan trọng, nhưng nó chưa đủ. Để
biết Chúa Giêsu điều cần thiết là phải trải qua cuộc hành trình của
Thánh Phêrô: sau chuyện bẽ bàng đó, Thánh Phêrô đã trưởng thành hơn với
Chúa Giêsu, đã nhìn thấy những phép lạ Ngài làm, đã thấy quyền năng của
Ngài. Rồi thánh nhân cũng nộp thuế như Chúa Giêsu đã truyền cho ngài là
bắt một con cá, lấy ra một đồng xu để nộp thuế. Thánh nhân đã thấy nhiều
phép lạ như thế. Tuy nhiên, tại một thời điểm nhất định, chính Phêrô
lại đã chối Chúa, đã phản bội Thầy mình, và ngài học được bài học gay go
nhất ấy - vượt xa mọi thông hiểu – bằng nước mắt, và than khóc."
"Câu
hỏi đầu tiên dành cho Thánh Phêrô - ' Còn anh em, anh em bảo Thầy là
ai?' chỉ có thể hiểu được sau một hành trình, một hành trình rất dài,
hành trình của ân sủng và tội lỗi, hành trình của một môn đệ. Chúa Giêsu
đã không nói với Phêrô và các Thánh Tông Đồ ‘Hãy biết Ta!’; nhưng Ngài
nói: ‘Hãy theo Ta!’ Và việc theo Chúa Giêsu này làm cho chúng ta biết
Ngài. Chúng ta theo Chúa Giêsu với sức mạnh của chúng ta, và cả với tội
lỗi chúng ta, nhưng luôn luôn theo Chúa. Điều cần thiết không phải chỉ
là học biết điều này điều nọ, nhưng là sống cuộc sống của một môn đệ
Người. "
"Biết Chúa Giêsu là một ân sủng của Chúa Cha, chính Ngài
là Đấng làm cho chúng ta biết Chúa Giêsu. Đó là một tác động của Chúa
Thánh Thần, là một người thợ vĩ đại, không phải là một ‘đoàn viên công
đoàn’ - Ngài là một người thợ tuyệt vời luôn làm việc trong chúng ta.
Ngài giải thích những mầu nhiệm về Chúa Giêsu, và đem đến cho chúng ta
nhận thức về Chúa Giêsu. Chúng ta nhìn vào Chúa Giêsu, Thánh Phêrô, và
các Thánh Tông Đồ, và chúng ta nghe vang vọng trong lòng mình câu hỏi
‘Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?’ Cũng như các Thánh Tông Đồ, chúng
ta hãy xin cùng Chúa Cha ban cho chúng ta được biết Chúa Kitô từ Thánh
Thần, Đấng sẽ giải thích cho ta mầu nhiệm này”
4. Kinh Truyền TinThánh
lễ kéo dài 1 tiếng rưỡi đồng hồ và kết thúc lúc 11 giờ rưỡi. Nửa tiếng
sau đó, Đức Thánh Cha Phanxicô đã xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc
của Đức Giáo Hoàng ở lầu 3 trong dinh Tông tòa để chủ sự buổi đọc kinh
truyền tin với 60 ngàn tín hữu tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô, dưới
bầu trời nắng đẹp.
Trong bài huấn dụ, Đức Thánh Cha nhắc đến bài
đọc thứ hai của Chúa Nhật 23 tháng Hai, trong đó thánh Phaolô nói đến
tình trạng chia rẽ trong giáo đoàn Corinto (1 Cr 1,12..): họ họp thành
những nhóm theo những nhà giảng thuyết khác nhau mà họ coi là thủ lãnh,
Phaolo, Apollo, Cepha. Thánh Phaolô giải thích rằng cách suy tư như thế
là sai lầm, vì cộng đoàn không thuộc về các tông đồ, nhưng các vị thuộc
về cộng đoàn, nhưng toàn thể cộng đoàn thuộc về Chúa Kitô. Từ sự thuộc
về ấy phát sinh điều này là trong các cộng đoàn Kitô - giáo phận, giáo
xứ, hội đoàn, phong trào - các khác biệt không thể đi ngược sự kiện tất
cả chúng ta có cùng phẩm giá nhờ bí tích rửa tội: tất cả đều là con cái
Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Những người đã nhận sứ vụ hướng dẫn, rao
giảng, cử hành các bí tích, không được coi mình là những người sở hữu
các quyền bính đặc biệt, nhưng phải đặt mình phục vụ cộng đoàn, giúp
cộng đoàn tiến bước trên con đường nên thánh trong vui tươi. Hôm nay
Giáo Hội ủy thác việc làm chứng tá về lối sống mục vụ ấy cho các Hồng Y
mới mà tôi đã cử hành thánh lễ với các vị sáng nay. Ước gì công nghị
Hồng Y hôm qua mang lại cho chúng ta cơ hội quí giá để cảm nghiệm đặc
tính Công Giáo, hoàn vũ của Giáo Hội, được biểu lộ qua nguyên quán khác
nhau của các thành viên Hồng Y đoàn, liên kết trong niềm hiệp thông chặt
chẽ quanh người Kế Vị Thánh Phêrô. Và xin chúa ban cho chúng ta ơn được
hoạt động cho sự hiệp nhất của Giáo Hội.
Đức Thánh Cha nói thêm
rằng: “Ước gì những lúc cử hành phụng vụ và mừng lễ mà chúng ta đã được
cơ hội trải qua trong hai ngày qua, củng cố nơi tất cả chúng ta niềm
tin, tình yêu đối với Chúa Kitô và Giáo Hội của Chúa! Tôi cũng mời gọi
anh chị em hãy nâng đỡ các vị mục tử ấy và trợ giúp các vị bằng lời cầu
nguyện để các vị luôn nhiệt thành hướng dẫn dân được ủy thác cho các vị,
tỏ cho tất cả mọi người thấy sự dịu dàng và tình thương của Chúa. Một
Giám Mục, một Hồng Y, một Giáo Hoàng, cần lời cầu nguyện dường nào, để
có thể giúp dân Chúa tiến bước. Tôi nói “giúp đỡ” có nghĩa là phục vụ
Dân Chúa, vì ơn gọi của Giám Mục, của Hồng Y và của Giáo Hoàng chính là
người phục vụ, phục vụ nhân dân Chúa Kitô. Anh chị em hãy cầu nguyện cho
chúng tôi, để chúng tôi là những người đầy tớ tốt, chứ không phải là
những ông chủ tốt! Tất cả các Giám Mục, linh mục, những người thánh hiến
và giáo dân chúng ta phải cùng nhau làm chứng về một Giáo Hội trung
thành với Chúa Kitô, được linh hoạt bằng ước muốn phục vụ anh em và với
lòng can đảm như các ngôn sứ, sẵn sàng đáp ứng những mong đợi và đòi hỏi
tinh thần của con người thời nay. Xin Mẹ Maria tháp tùng và bảo vệ
chúng ta trong hành trình này.
5. Buổi triều chung sáng thứ Tư 26 tháng HaiTrong
buổi triều chung sáng thứ Tư 26 tháng Hai với hàng chục ngàn tín hữu
tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã giảng giải về bí tích Xức
dầu bệnh nhân.
Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến:
Tiếp
tục loạt bài giáo lý của chúng ta về các phép bí tích, giờ đây chúng ta
hướng đến Bí tích Xức dầu bệnh nhân, là bí tích thể hiện sự hiện diện
đầy lòng thương xót của Thiên Chúa với người bệnh, người đau khổ và
người cao tuổi.
Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu nói lên mối
quan tâm dịu dàng của Chúa chúng ta với những người đau khổ. Như người
Samaritanô nhân hậu, và noi gương Chúa Kitô cũng như tuân theo giáo huấn
của Ngài, Giáo Hội mang sự hiện diện chữa lành của Thiên Chúa đến cho
những người đau khổ thông qua bí tích xức dầu bệnh nhân.
Như
chúng ta đọc thấy từ Thư của Thánh Giacôbê Tông Đồ ( 5:14-15 ), Giáo Hội
tiên khởi đã tiếp tục sứ vụ của Chúa Kitô đối với các bệnh nhân qua lời
cầu nguyện và việc xức dầu được thực hiện bởi linh mục của mình.
Thông
qua việc cử hành Bí tích Xức Dầu, Giáo Hội đồng hành với chúng ta khi
chúng ta phải đối mặt với mầu nhiệm sâu xa của sự đau khổ và cái chết.
Trong
nền văn hóa mà quá thường khi người ta tránh né đề cập đến những thực
tại này, tất cả chúng ta cần nhận biết vẻ đẹp của Bí tích Xức Dầu và
đánh giá cao, trong tình hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, sự hiện diện
của Chúa Giêsu, Đấng củng cố chúng ta trong đức tin và hy vọng, và nhắc
nhở chúng ta rằng không có gì - thậm chí sự dữ và cái chết - có thể tách
chúng ta khỏi quyền năng cứu độ của tình yêu Ngài.
Nguồn:
http://vietcatholic.org/News/Html/121776.htm