CHÂN THIỆN MỸ MẾN CHÀO CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM

Thứ Bảy, 1 tháng 4, 2017

Bản Tin Giáo Xứ Công Lý SỐ 19.A CHÚA NHẬT 5 Mùa Chay Năm A 02-04-17






Lời Chúa : ” Ta là sự sống và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ “(Ga 11, 25-26). 
Lời Chúa : Ed 37,12-14; Rm 8,8-11; Ga 11,1-45
Ý cầu nguyện tháng Tư
* Xin Ơn cho Giới Trẻ – Để giới trẻ biết quảng đại đáp ứng ơn gọi của họ và nghiêm chỉnh đáp lại việc hiến mình cho Thiên Chúa trong thiên chức linh mục hay đời sống thánh hiến tu trì.
***

Tình thương mạnh hơn sự chết
 (Suy niệm của cố Lm. Hồng Phúc)
Câu chuyện Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại là một tường thuật căn bản của Phúc Âm thánh Gioan. Chúa Giêsu được mô tả như Ngôi Lời nhập thể, đến trong thế gian để con người được đưa từ bóng tối ra ánh sáng, từ sự chết vào cõi sống, từ đất đến trời. Đức Giêsu Nagiarét thật là một con người huyền diệu và là một Thiên Chúa toàn năng.
Gioan, người đồ đệ Chúa thương yêu, đã sống bên cạnh Chúa, đã nhìn thấy, đã sờ đụng, đã chứng kiến quyền năng của Ngôi Hai Thiên Chúa trong bản thể của con người. Đây là một bản tuyên xưng Đức Tin sống động mà Công đồng Chalcédoine năm 451 đã long trọng công bố: "Ngôi Lời, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Maria về tính loài người, gồm hai bản tính không lẫn lộn, không thay đổi, không chia sẻ, không tách rời". Đấng ấy Gioan đã nhìn thấy và minh chứng.
Ngài là một con người đích thực, biết yêu biết cảm.
Gioan viết rằng tại làng Bêtania, "Chúa Giêsu thương Martha và em là Maria và Lazarô", nhưng hôm nay, Lazarô đã chết và chôn được 4 ngày rồi. Trên đường dẫn ra mộ để thăm người bạn cũ, Gioan nhìn thấy khuôn mặt Chúa nhiều lần biến sắc: Ngài bồn chồn, xao xuyến, Ngài khóc khi thấy hai chị em khóc nức nở: "Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết!".
Ngài là một con người đích thực, biết thương, biết cảm, biết chia sẻ tình bạn, biết liều mạng sống vì bạn hữu. Người Do thái nói: "Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết là chừng nào". Nhưng qua khuôn mặt con người đó, sáng chói quyền năng của một ngôi vị Thiên Chúa.
Gioan mô tả những chặng đàng Chúa đi xuống với sự chết để rồi cùng với người chết đi lên với sự sống. Lazarô, người bạn thân của Chúa, ốm nặng, tắt thở, được chôn cất và đã nặng mùi, vì đã 4 ngày. Đó là tất cả thảm trạng của sự chết, hình ảnh sự chết của tâm hồn do tội lỗi.
Nhưng Chúa là chủ sự sống, Ngài không để bạn hữu mình trầm luân mãi trong bóng tối sự chết. Gioan nhìn thấy hình ảnh đặc ân rửa tội đến một cuộc tái sinh, một cuộc vươn lên sự sống, do Đấng là "sự sống và là sự phục sinh" mang lại.
Đứng trước hầm mộ, Ngài kêu lớn tiếng như để tiếng Ngài rạng đến cõi âm u của sự chết. Và Lazarô đã ra khỏi mồ, được tháo gỡ khỏi "xiềng xích sự chết" (Tv 116, 8), được sống lại đầy sinh lực. Gioan nhìn thấy ở đây hình ảnh một người tân tòng vừa bước ra khỏi giếng rửa tội.
Vì thế, Giáo hội đọc lên trong ngày tái sinh trong giếng nước rửa tội cũng như trong nghi lễ tiễn đưa một tín hữu đến nơi an nghĩ cuối cùng Lời của Chúa phán trước phần mộ của Lazarô: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ".
Ngài là ai mà tình thương mạnh hơn sự chết? Martha đã nói lên niềm tin của Bà cũng như niềm xác tín của chúng ta.
"Thưa Thầy, vâng, con tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian".

GIÁO LÝ :  Mục vụ gia đình: Chuẩn bị cho người trẻ bước vào đời sống hôn nhân

§  Câu Giáo lý 356: H./ vì sao gia đình công giáo được gọi là “Hội Thánh tại gia”? T./  Vì gia đình công giáo/ biểu lộ bản chất của Hội Thánh là gia đình của Thiên Chúa/ và vì gia đình Công giáo/ vừa là cộng đoàn ân sủng và cầu nguyện,/ trường dạy các đức tính nhân bản và Kitô giáo,/ vừa là nơi đầu tiên đức tin được loan truyền cho con cái.
Sẽ là “người Công Giáo vô thần” nếu trái tim ta chai đá
Ước chi hôm nay nghe Tiếng Chúa, các bạn đừng cứng lòng nữa.
Khi rời xa Thiên Chúa, khi giả điếc làm ngơ trước Lời của Chúa, chúng ta trở nên vô tín hoặc thậm chí chúng ta là người Công Giáo nhưng là “người Công Giáo vô thần”. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ tại nhà nguyện Marta.
Nếu không nghe Lời Chúa, thì cuối cùng chúng ta sẽ nghe các ngẫu tượng của thế gian
Nếu ngừng nghe Lời Chúa, thì thực tế là chúng ta đang chạy trốn và rời xa Thiên Chúa. Và nếu chúng ta không nghe tiếng Chúa, chúng ta sẽ nghe những tiếng khác. Thực tế cay đắng là, khi ngoảnh mặt làm ngơ, chúng ta trở nên điếc lác, điếc Lời Chúa.
Tất cả chúng ta, hôm nay dừng lại và nhìn vào cõi lòng mình, để thấy biết bao lần, biết bao lần chúng ta đóng cửa đôi tai và trở nên điếc. Ngay cả một dân tộc, một cộng đồng, ngay cả một cộng đoàn Kitô hữu, một giáo xứ, một giáo phận, đã ngoảnh tai làm ngơ, đã trở nên điếc trước Lời Chúa, để rồi tìm kiếm những tiếng nói khác, những chúa khác, và kết cục là tìm các ngẫu tượng của thế gian này. Khi đó chúng ta rời xa Thiên Chúa hằng sống.
Nếu có trái tim chai đá, thì chúng ta trở thành “người tín hữu ngoại đạo” thậm chí là “người Công Giáo vô thần”
Khi rời xa Thiên Chúa, trái tim chúng ta trở nên khô cứng. Khi không còn lắng nghe, trái tim trở nên khô cứng hơn, khép kín hơn vào chính mình và không thể đón nhận thêm gì nữa. Khi ấy trái tim không chỉ là khép kín mà còn là chai đá.
Khi không còn lắng nghe Lời Chúa, trái tim trở nên chai đá và khép kín, chúng ta đang đánh mất đi sự trung tín, mất đi cảm thức của sự trung thành. Trong bài đọc một trích sách Ngôn sứ Gieremia, Chúa nói: “Sự tín trung đã bị đánh mất”. Và khi ấy, chúng ta là người Công Giáo mà không sống đạo, chúng ta là người Công Giáo ngoại đạo, thậm chí tệ hơn nữa, chúng ta có thể là người Công Giáo vô thần, bởi vì chúng ta không quy chiếu vào tình yêu của Thiên Chúa hằng sống. Không nghe và ngoảnh mặt, điều ấy làm cho con tim của ta ra chai đá, điều ấy dẫn chúng ta đi trên con đường bất trung.
Sự bất trung ấy chứa đầy những lầm lẫn xáo trộn. Đó là con đường gây ra những nhầm lẫn, rằng không biết Thiên Chúa ở đâu, rằng không biết có Chúa hay không, rằng nhận biết sai lầm và nhầm lẫn giữa Thiên Chúa và ma quỷ. Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu làm phép lạ để cho thấy quyền năng cứu độ của Thiên Chúa, người dân thì vui mừng ca khen, còn có những kẻ lại nói: “Ông ta làm điều ấy nhờ quyền năng của Tướng Quỷ”.
Tự hỏi lòng mình: Tôi có thực sự lắng nghe Lời Chúa không?
Khi không nghe, khi cứng lòng, bạn sẽ rơi vào nhiều lầm lạc, bạn sẽ không còn tín trung, và kết cục là tội phạm thượng. Và thực tế, nhiều người quên đi sự tuyệt vời của cuộc gặp gỡ đầu tiên với Thầy Giêsu.
Mỗi người trong chúng ta hôm nay tự hỏi lòng mình: Tôi có biết dừng lại lắng nghe Lời Chúa không? Trái tim tôi có đang chai đá không? Tôi có đang xa lánh Chúa không? Tôi có đánh mất sự tín trung với Thiên Chúa hằng sống không? Tôi có chung sống với các thần tượng hằng ngày đem lại sự nhàm chán không? Tôi có đánh mất niềm vui tuyệt vời của cuộc gặp gỡ đầu tiên với Chúa Giêsu không?
Hôm nay là ngày để lắng nghe: “Hôm nay, anh em hãy nghe Lời của Chúa”. Chúng ta hãy cầu nguyện: “Xin cho con đừng cứng lòng nữa”. Chúng ta hãy nài xin ơn ấy, ơn để biết lắng nghe vì trái tim chúng ta hãy còn chai đá.                                         Tứ Quyết SJ 


Linh Mục Alexandre De Rhodes (Cha Đắc-Lộ) Khai Sinh Chữ Quốc Ngữ !
Luật Sư Đặng Đình Mạnh
Khi đọc những dòng chữ Việt ngữ này, là bạn đang chiêm ngưỡng tác phẩm của các linh mục thừa sai Dòng Tên gồm các cha Gaspar De Amaral, cha Antonio Barbosa, cha Francisco De Pina và cha Alexandre De Rhodes, tất cả họ đều là tác giả của quốc ngữ mà người Việt ta đang sử dụng hàng ngày.
Với linh mục Gaspar De Amaral, cha đã soạn cuốn từ điển Việt – Bồ. Với linh mục Antonio Barbosa, cha soạn cuốn từ điển Bồ – Việt. Với linh mục Francisco De Pina, được cho là cha đã dựa vào cách phát âm tiếng Bồ để chuyển tự ghi chép tiếng Việt khi ông vào Đàng Trong (Từ sông Gianh trở vào Nam). Nhưng các cha đều mất khá sớm, tuy vậy, cùng với một số linh mục khác trong giai đoạn tiên khởi này, các cha đã giúp đặt nền móng đầu tiên cho quốc ngữ Việt Nam.
Với linh mục Alexandre De Rhodes, thì cha đã dựa vào hai công trình từ điển nêu trên và bổ sung thêm phần La tinh để hình thành nên cuốn từ điển Việt – Bồ – La.
Thực tế, chính việc bổ sung phần La tinh của cha Alexandre De Rhodes đã trở thành đóng góp quan trọng bậc nhất giúp hình thành nên chữ viết theo lối La tinh mà sau đó nhanh chóng trở thành quốc ngữ Việt Nam.
Đánh giá về vai trò của linh mục Alexandre De Rhodes trong việc khai sinh nên quốc ngữ Việt Nam, tờ Nguyệt San MISSI do các linh mục Dòng tên người Pháp quản lý đã từng viết nhân dịp kỷ niệm 300 năm ngày sinh của ông, đại lược như sau : “Khi cho Việt Nam các mẫu tự La Tinh, cha Alexandre De Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến ba thế kỷ”.
Quả vậy, khi chính thức xác định mẫu tự, bằng cách in quyển từ điển và các sách đầu tiên bằng chữ quốc ngữ tại nhà in Vatican – Roma, thì cha Alexandre De Rhodes đã giải phóng cho nước Việt Nam về chữ quốc ngữ.
Bởi lẽ trước đó, tương tự như Nhật Bản và Cao Ly (Triều Tiên), thì người Việt Nam sử dụng lối chữ viết tượng hình, biểu ý của người Tầu hoặc chữ nôm do tự sáng chế và bị nô lệ vì chữ viết này. Chỉ mới cách đây không lâu, người Cao Ly mới chế biến ra chữ viết riêng của họ, nhưng vẫn không theo cách viết La tinh nên bị hạn chế nhiều. Còn người Nhật Bản thì sau nhiều lần thử nghiệm chế biến lối chữ viết khác, nhưng cuối cùng đã phải bó tay và đành trở về với lối viết tượng hình, biểu ý của người Tàu.
Trong khi đó, chính người Tầu cũng đã từng tìm cách dùng các mẫu tự La Tinh để chế biến ra chữ viết của mình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công. Vậy mà dân tộc Việt Nam, nhờ công ơn của cha Alexandre De Rhodes, đã tiến bộ trước người Tầu  đến hơn ba thế kỷ rưỡi (1651 – 1017 – tính từ năm in cuốn từ điển Việt – Bồ – La đến thời điểm hiện nay.
Dĩ nhiên, không phải chỉ riêng mình cha Alexandre De Rhodes khởi xướng ra chữ Quốc ngữ. Trước đó, các cha thừa sai Dòng Tên người Bồ Đào Nha ở Ma Cao đã nghĩ ra một số phát âm tiếng Việt, viết bằng các mẫu tự La Tinh rồi. Tuy nhiên, chính cha Alexandre De Rhodes là người hệ thống hóa, hoàn tất công trình làm ra chữ quốc ngữ thành công vào năm 1651, tức là năm mà cuốn tự điển Việt – Bồ – La chào đời tại nhà in Vatican – Roma.
Thế nên, chính tại nhà in Vatican ở Roma là nơi mà Việt Nam nhận được chữ viết của mình, và chính năm 1651 cũng là năm khai sinh chính thức của chữ quốc ngữ Việt Nam.
Theo đó, chữ viết theo lối La tinh ban đầu được các nhà truyền giáo đặt nền móng cho việc sử dụng trong cộng đồng Ki-tô giáo Việt Nam, đến khi được người dân Việt Nam chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, thì mặc nhiên nó đã tự mình được nâng cấp thành chữ quốc ngữ.
Ghi nhận công nghiệp của cha Alexandre De Rhodes đối với xứ sở, năm 1941, một tấm bia kỷ niệm nhân ngày sinh nhật thứ 350 của cha đã được dựng ở gần bên bờ Hồ Gươm trước cửa đền bà Kiệu – Hà Nội. Đến năm 1957, thì bia đã bị gỡ bỏ.
Chính quyền Sài Gòn cũ đặt tên ông cho một con đường tọa lạc trước mặt Dinh Độc Lập, nay là Dinh Thống Nhất, đối xứng với phía bên kia là đường Hàn Thuyên, tên danh sĩ được ghi nhận có công phát triển và phổ biến lối chữ Nôm. Sau năm 1975, đổi tên đường thành Thái Văn Lung và bây giờ thì đã trả lại tên cũ là Alexandre De Rhodes cho con đường này.
Về tiểu sử : Nguyên, cha Alexandre De Rhodes (Đắc Lộ) sinh ngày 15/03/1591 (hay 1593 ?) tại vùng Avignon, miền nam nước Pháp. Gia đình ông thuộc gốc Do Thái ở thành phố Rhodes (bán đảo Iberia), tổ tiên sang tị nạn ở vùng Avignon là đất của Giáo Hoàng. Ông gia nhập Dòng Tên tại Roma năm 1612, thời kỳ công cuộc truyền giáo cho các dân tộc đang trên đà phát triển mạnh mẽ.
Đầu năm 1625, cha Alexandre De Rhodes đến Việt Nam bắt đầu từ Hội An. Cha bắt đầu học tiếng Việt và chọn tên Việt là Đắc-Lộ. Từ đó, Việt Nam trở thành quê hương thứ hai của cha. Nhưng cuộc đời truyền giáo của cha ở đây rất gian nan, trong vòng 20 năm, cha bị trục xuất đến sáu lần.
Đến năm 1645, cha bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. Cha mất ngày 5/11/1660 ở Iran, thọ 69 tuổi.
Hiện nay, ở Việt Nam đã từng xuất hiện ý kiến phủ nhận công lao đóng góp của cha Alexandre De Rhodes trong việc khai sinh chữ quốc ngữ, một trong số họ nêu quan điểm : “Alexandre De Rhodes làm sách bằng chữ quốc ngữ là để phụng sự cho việc truyền bá đức tin Ki-tô giáo, chứ tuyệt đối không vì bất cứ một lợi ích nhỏ nhoi nào của người Đại Việt cả.
Người Việt Nam đã tận dụng chữ quốc ngữ, mà một số cố đạo đã đặt ra, với sự góp sức của một số con chiên người Đại Việt, để làm lợi khí cho việc giảng đạo, thành lợi khí của chính mình để phát triển văn hóa dân tộc, để chuyển tải một cách đầy hiệu lực những tư tưởng yêu nước và những phương thức đấu tranh nhằm lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp. Đây chẳng qua là chuyện “gậy ông đập lưng ông” mà thôi.
Riêng đối với công chúng, thì :
– Lối chữ viết đã trở thành quốc ngữ của xứ sở với chín mươi triệu đồng bào cả trong và ngoài nước cùng sử dụng;
– Lối chữ viết được dùng để thể hiện những dòng lịch sử oai hùng của dân tộc từ thuở hồng hoang đến nay;
– Lối chữ viết được dùng để thể hiện lời ru “Ầu ơ …” ân cần của mẹ từ ngày sinh ra ta làm kiếp người;
– Lối chữ viết được dùng để thể hiện sự yêu thương giữa những thành viên trong gia đình, giữa những đôi tình nhân, giữa những người tri kỷ …
– Lối chữ viết được dùng thể hiện ca từ những nhạc phẩm bất tử như Bạch Đằng Giang, Hội nghị Diên Hồng, Trưng Nữ Vương, Lòng mẹ, Tình ca …
– Lối chữ viết mà dân ta có thể tự hào là riêng biệt trong khi rất nhiều quốc gia khác, kể cả nhiều cường quốc vẫn còn phải vay mượn (Úc, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Ấn Độ, Gia Nã Đại, Nhật Bản, Đại Hàn …);
Thì người khai sinh của lối chữ viết ấy chắc chắn phải là ÂN NHÂN của xứ sở mình, bất kể đến quốc tịch của họ, bất kể đến tôn giáo của họ và bất kể đến động cơ của họ khi khai sinh lối chữ ấy !
Cha Alexandre De Rhodes, người có công khai sinh lối chữ viết mà nghiễm nhiên đã là quốc ngữ của xứ sở, như là một trong những ân nhân của dân tộc!  
Tôi tin rằng, xứ sở này nợ ông ấy lời tri ân !

Câu Truyện: KÉO CHUÔNG ĐỌC KINH TRUYỀN TIN

Năm 1456, thành Belgrade cạnh sông Danube bị quân Thổ Nhĩ Kỳ bao vây và đánh phá ròng rã 4 tháng trời, nhưng vẫn không sao chiếm nổi. Thất vọng vì thấy bao nhiêu nỗ lực bị uổng công, vua Thổ Nhĩ Kỳ quyết định mở 1 cuộc tổng tấn công cuối cùng để xóa sổ thành này. Trong 20 tiếng đồng hồ, đôi bên đánh nhau kịch liệt.
Quân thủ thành nhược sức chán nản vì phải cầm cự quá lâu ngày. Họ đang định đầu hàng quân giặc, thì giữa lúc đó thánh Gioan Capistranô, 1 tu sĩ đạo đức Dòng Phanxicô xuất hiện. Ngài cầm 1 tượng Thánh giá, tiến lên, giơ cao cho các binh sĩ xem thấy và cầu nguyện lớn tiếng: “ Lạy Nữ Vương quyền phép trên trời, Mẹ bỏ các con cái Mẹ rơi vào tay quân vô đạo để chúng tha hồ làm nhục, làm ô danh Con Thánh của Mẹ sao? Chúng sẽ dựa vào sự đắc thắng mà nhạo báng: Thiên Chúa của quân Công giáo ở đâu?”.
Vừa van xin thánh nhân vừa khóc lóc thảm thiết.
Kích thích bởi lời cầu nguyện và nước mắt thánh nhân, binh sĩ Công giáo hăng hái cách lạ lùng, đã xông vào và giết hàng vạn quân Thổ đã tràn vào thành. Số quân địch còn lại đều trốn chạy hết.
Được tin chiến thắng cách lạ đó, Đức Giáo Hoàng Calixtô III vui mừng hớn hở, truyền cho khắp Giáo hội tại các nhà thờ phải hát kinh Tạ Ơn Chúa, và ra lệnh từ hôm đó trở đi, vào lúc 3 giờ chiều là giờ chiến thắng, các nhà thờ phải kéo chuông đọc 3 kinh Kính Mừng để kỉ niệm. Đồng thời nhắc nhủ lòng tin tưởng vào quyền phép và lòng yêu thương của Đức Mẹ.
Về sau, hồi chuông được dịch lên giờ trưa, để chia ngày ra 2 phần đều nhau sáng chiều, cùng đọc 3 kinh Kính Mừng rồi kinh Truyền Tin, nhưng vẫn có ý kỉ niệm cuộc chiến thắng anh dũng kì lạ đó.
(Sách ‘Các Ngày Của Mẹ’, tác giả Lm Phêrô CMC, tập 1 trang 169)

CHÚA NHẬT V MÙA CHAY A
I. TÌM HIỂU THÁNH LỄ:  9. Các thừa tác viên khác
Thạch Vinh
Lễ có Thầy phó  tế hay không, thì các phận sự khác đều do giáo dân thi hành. Tiếng chuyên môn của Phụng vụ gọi là những người giúp  lễ nhưng chúng ta cũng có thể tiếp tục gọi họ là những thừa tác viên. Dầu họ không được lãnh chức, nhưng đây họ không phải là những giáo dân ăn mặc chỉnh tề để làm kiểng để giúp việc hàng giáo sĩ. Ở đây họ thi hành một công tác phụng vụ thực sự và như thế họ thi hành chức vụ tư tế do Bí tích Rửa Tội của họ.
Chúng ta có thể nhìn họ theo hai phương diện trước hết, vì là giáo dân họ được coi như là những người được dân đề cử để giúp linh mục, nhưng vì họ có những phận sự của thừa tác viên nên họ cũng được coi như sứ giả của linh mục nơi dân Chúa. Thực sự, họ vừa là cả hai và hoạt động của họ là làm gạch nối đi lại là liên lạc giữa lòng nhà thờ và cung thánh.
Một số Thừa tác viên loại này có thể làm những việc rất gần với những việc của thầy phó tế. Trước hết, các việc liên quan đến Lời Chúa họ có thể lên giảng đài để đọc các bài Sách Thánh, trừ bài Phúc âm khi không có thầy Phó tế thì Linh mục đọc bài này.
Ở giảng đài, họ cũng có thể xướng các ý nguyện trong lời nguyện giáo dân. Sau nữa, họ cũng có thể dẫn Lễ nhưng không được ở giảng đài. Nhiệm vụ dẫn Lễ này, trước kia cần thiết vì Lễ được cử hành bằng tiếng La tinh, nay thì không còn lý do tồn tại nữa .
Nếu ngày nay đôi khi cần phải hướng dẫn vắn tắt thì chính chủ tế sẽ đảm nhận việc này.
Các thừa tác viên này còn có thể thay thế thầy phó  tế  để phục vụ Thánh Thể đích thực như giúp Chủ tế ở bàn thờ, mang lễ vật của giáo dân lên và trong vài trường hợp khi được phép họ có thể giúp chủ tế cho giáo dân hiệp lễ.
Hát các bài Thánh Vịnh trong ca Nhập lễ,  trong bài Đáp ca, sau Bài đọc thứ nhất,  trong bài ca Hiệp Lễ cũng là một công tác phụng vụ liên hệ đến Lời Chúa nhưng việc này cũng là việc của ca đoàn.
Ca đoàn không phải là một nhóm nhạc sĩ ca sĩ có nhiệm vụ trang trí cho cuộc cử hành, hoặc làm vui tai hay giải trí cho giáo dân.
Ca đoàn là một nhóm tín hữu có khả năng về âm nhạc thi hành một phận sự phụng vụ đích thực hoặc là để hát cho giáo dân theo hoặc để hát những bài khó hơn giúp cho việc thờ phượng được tốt đẹp và gây bầu không khí để suy niệm.  
Sau hết các tín hữu lo việc đón tiếp những người đến nhà thờ, tổ chức các cuộc rước, đi thu tiền, phân phối các sách hay bài hát. Họ cũng thi hành một công tác phụng vụ đích thực, vì họ góp phần để giúp mọi người tham gia tích cực hơn.
(theo tìm hiểu Thánh Lễ của A.M Roguet bản in Ronéo không ghi  dịch giả)

II. Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay
Các bài đọc trích trong
1.Ed 37,12-14
2.Rm 8,8-11
3.Ga 11,1-45
Ý chính: Chúa là sự sống lại và là sự sống.
Bài đọc 1: trích ngôn  xứ Êdêkien 37, 12-14
Ý chính: Đức Chúa làm những người đã chết ra khỏi huyệt mộ và được hồi sinh.
Đức Chúa phán với ngôn  xứ Ê-dê-ki-en là Ngài sẽ mở huyệt mộ cho dân Chúa, đưa họ ra khỏi huyệt và cho họ được hồi sinh nhờ thần khí của Ngài và đưa họ về đất It-ra-en để dân Chúa nhận biết chính Ngài là Đức Chúa, Ngài đã phán và làm . Ngôn sứ  Ê-dê-ki-en   tuyên những lời sấm này khi ông và dân It-ra-en  bị lưu đày ở Ba-by-lon. Những bộ xương khô, những huyệt mộ tượng trưng cho  người It-ra-en những người bị lưu đày và tản mác . Bây giờ  khi các giấc mộng đã sụp đổ thì Thiên Chúa có thể lai xây lên. người gửi thần khí của Người đến làm cho kẻ chết được hồi sinh. Người muốn phục sinh dân Người.
Sau khi đoàn người lưu đày tại Ba-by-lon đã trở về thì It-ra-en có nhu cầu tụ tập con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối trong một dân  It-ra-en đã phục hưng. Thiên Chúa vẫn ở với dân Người.
Phúc Âm Chúa Kitô theo thánh Gioan 11, 1- 45
Ý chính : Đức Giê-su  là sự sống lại và là sự sống.
Đoạn trích Phúc âm Ga 11, 1-45 thuật lại việc Đức Giê-su  cho La-gia-rô đã chết được sống lại. La-gia-rô là em cô Mác -ta và cô Ma-ri-a ở Bê-ta-ni-a . Trên đường rao giảng Lời Chúa, Đức Giê-su thường ghé thăm ba chị em La-gia-rô. Nên khi La-gia-rô đau nặng hai cô cho người đến nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng”.Đức Giêsu bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu...Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở….Người bảo các môn đệ : “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc… nhưng các môn đệ tưởng là anh ấy đang ngủ nên nói : anh ấy  ngủ được, anh ấy sẽ khoẻ lại. Bấy giờ, người mới nói rõ : “ La-da-rô đã chết.”
Khi đến nơi, Đức Giêsu thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem không đầy ba cây số. Nhiều người Do-thái đến chia buồn với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì em các cô mới qua đời. Vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà.
Cô Mác-ta nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Đức Giêsu nói: “Em chị sẽ sống lại!”. Cô Mác-ta thưa: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Đức Giêsu liền phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?”. Cô Mác-ta đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”.
Cô Mác-ta đi gọi em là Ma-ri-a, và nói nhỏ: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!”. cô Ma-ri-a vội đứng lên và đến với Đức Giêsu.
Cô Ma-ri-a vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết”. Thấy cô khóc, và những người Do-thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. Người hỏi: “Các người để xác anh ấy ở đâu?”. Họ trả lời: “Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem”. Đức Giêsu liền khóc...
Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. Đức Giêsu nói: “Đem phiến đá này đi”. Cô Mác-ta là chị người chết liền nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày”. Đức Giêsu bảo: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?”. Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện…Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!”. Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Đức Giêsu bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi”.
Một số người Do-thái chứng kiến việc Đức Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.
Đức Giêsu đã giảng về sự bất tử của linh hồn và sự phục sinh của thân xác. Người làm dấu lạ này để những ai chưa tin sẽ tin vào Người. Người là Đấng Chúa Cha sai đến và lời Người giảng dạy là lời chân thực.
La-da-rô sống lại là dấu chỉ lớn bày tỏ quyền năng của Thiên Chúa. Ngài đã chiến thắng  sự chết . Chết là một thực tại, nhưng không phải là dấu chấm hết.
Đức Giêsu cũng muốn cho thấy Người sẽ chiến  thắng sự chết. Sự phục sinh của Đức Giêsu không phải là sự trở lại cuộc sống  trước kia như La-da-rô, như con trai bà góa thành Na-im, như con gái ông Giai-rô… mà là cuộc vượt qua vinh quang. Người không còn chết nữa… Người đem lại cho sự đau khổ và sự chết  một ý nghĩa và một giá trị  đặc biệt, Đó là cái chết chỉ là giai đoạn chuyển tiếp sang một cuộc sống vĩnh cữu, tốt đẹp hơn.
Bài đọc 2: Trích thư Rôma 8,8-11
Ý chính : Thần khí của Đức Chúa làm cho thân xác anh em được cuộc sống mới.
Thánh Phaolo nói với tín hữu Rôma: những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa. Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em... Nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính...Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.
Vậy những ai  được Thần khí Đức Ki-tô ngự trong mình thì thân xác người ấy đón nhận được sự sống mới.
Tóm lại , ba bài đọc đều nói đến sự sống lại và sự sống. Đức Chúa đã hồi sinh  dân Người bị lưu đày, tản mác coi như đã chết được hồi sinh và được trở về quê hương của mình, xây dựng lại quê hương ( bài đọc 1) Đức Giê-su đã cho anh La-da-rô chết và được mai táng trong mồ đã 4 ngày, sống lại ra khỏi mồ, như chính Người chịu khổ nạn, chịu chết và Phục sinh vinh hiển. Người không còn chết nữa, để mọi người  tin rằng Người là Đấng Chúa Cha sai đến và lời giảng dạy của Người là chân thực và tin vào Người ( Phúc Âm ) Nhờ tin vào Người thì dù thân xác có chết vì tội lỗi cũng trở nên công chính và được sự sống mới ( bài đọc 2)

Tham khảo: CGvDT GS 2007 bài của Lm Nguyễn Tấn Khoa.
27-3-2017 trong tháng Thánh Giuse, trong năm Thánh Đức Mẹ Fatima
TRÙNG TU NHÀ THỜ ĐỨC BÀ.
Trùng tu với quyết tâm giữ gìn nguyên trạng hơn 150 năm không phải là dễ. Có người hỏi sao lâu thế. Thực ra, việc xây đã lâu (hơn chục năm) thì việc sửa cũng tương đương hoặc khó hơn...
Đây là những điều Cha Xuân thông báo ngày Lễ Chúa Nhật 26/03/2017 và cũng mong muốn phổ biến nên mình trích lại tóm tắt.
-Từ tháng 7/2015 bắt đầu nhờ các công ty, trong nước và nước ngoài nghiên cứu và tư vấn phương pháp trùng tu (trong đó có Cty Việt Kiến Trúc, Casa, Bureau Veritas, Phân viện Khoa Học Công Nghệ xây dựng Miền Nam.
- Tháng 10/2016 Cha Xuân qua Pháp-Đức, đến tận nơi các công ty sản xuất để đặt mua vật liệu. Hệ thống khung kẽm, máng xối là 15 tỉ.
- Đặt mái ngói từ các công ty Monier, Marseille, Meyer-Holsen, Eurohaus ba loại ngói là 10 tỉ, bảo hành 40 năm.
- Việc sửa hệ thống chuông do các công ty chính gốc (Paccard, Cornille Havard, Bollée, các công ty đều có tuổi đời trên 2 thế kỷ tư vấn và đấu thầu, khoảng 5 tỉ.
- Mua gỗ lim tại VN khoảng 2.5 tỉ.
- Các chi phí khác là 8 tỉ.
- Chưa có báo giá về bộ kính màu Vitrail.
Có tất cả 13 hạng mục trùng tu, trong đó có lẽ an toàn trên mái là khó nhất, toàn bộ 27 ngàn viên ngói (trong đó sơ cua 2 ngàn viên) đã đưa về trữ tại Trung Tâm Mục Vụ Sài Gòn.
Công trình ít nhất tốn 100 tỉ.  ( nguồn: Fb Mai Trung Chính )

Truyện : CHIẾC ĐỒNG HỒ Ở ĐÂU?


Chiếc đồng hồ của người cha biến đâu mất tìm không thấy, làm cha rất khó chịu, lật khắp nơi cũng tìm không ra. Đợi người cha đi ra khỏi phòng, cậu con trai liền lặng lẽ vào phòng, không lâu sau thì tìm thấy.

Người cha hỏi: Sao con tìm thấy vậy? Con trai trả lời: Con chỉ ngồi yên lặng một chút, không lâu sau nghe thấy tiếng tích tắc của đồng hồ ….


Dành cho quý ông  CHỒNG
Người chồng thương vợ: sẽ thấy lời vợ nói là những gì đáng để lắng nghe vì họ muốn hiểu vợ họ hơn.
Người chồng không thương vợ:  thà ngủ còn hơn nghe mụ vợ nói nhảm.
Người chồng thương vợ: đi đâu làm gì cũng hỏi ý vợ. Vợ vui thì đi, không thì ở nhà với vợ. Đơn giản họ không muốn vợ buồn.
Người chồng không thương vợ: đi đâu là quyền của họ, không việc gì phải nói với vợ. Vợ chứ có phải là mẹ, là bà nội đâu mà phải xin với chả phép.
Người chồng thương vợ: họ chọn những ngày ý nghĩa quan trọng được bên vợ.Vì đó là hạnh phúc và niềm vui của họ.
Người chồng không thương vợ: ngày quan trọng đi chơi với bạn bè, ăn nhậu là niềm vui bất tận.
Người chồng thương vợ: sẽ không bao giờ làm vợ họ phải khóc, phải rơi 1 giọt nước mắt nào vì họ.
Người chồng không thương vợ: làm vợ khóc nhiều. Xong còn bảo con này khóc mãi không biết mệt, hay câu chả có việc gì mà suốt ngày khóc.
Người chồng thương vợ: không bao giờ bỏ vợ ở nhà 1 mình để đi qua đêm.
Người chồng không thương vợ: qua đêm là chuyện bình thường. Miễn không làm gì sai là được.
Người chồng thương vợ: nghĩ rằng nghe vợ là tôn trọng vợ.
 Người chồng không thương vợ: nghĩ rằng nghe vợ là sợ vợ.
Người chồng thương vợ: chỉ muốn dành hết thời gian cho vợ.
Người chồng không thương vợ: không bao giờ từ chối được cuộc vui nào từ bạn bè. Thời gian họ dành cho bạn bè còn nhiều hơn cho vợ.
Người chồng thương vợ: muốn cả thế giới biết rằng họ yêu vợ họ nhất.
Người chồng không thương vợ: sợ người ta biết mình yêu vợ.
Người chồng hãy yêu thương vợ mình như Đức Kitô yêu thương Hội Thánh (Êphêsô 5:25)



TIẾNG NGÁY LÀM TÔI YÊN TÂM

Trần Mỹ Duyệt
 háng này tôi phải tiễn chân 4 người bạn về bên kia thế giới. Những người bạn thân thiết đã một thời quen biết già có, trẻ có cứ lần lượt bỏ tôi đi khiến dù muốn hay dù không tôi cũng phải suy nghĩ về thân phận của mình.
 Nghĩ đến lúc mình phải từ giã cõi đời cũng thấy nao nao và có cái gì xao xuyến. Nhưng nếu là số phận thì biết làm sao, chi bằng nhìn vào cuộc đời để rút ra một vài điều bổ ích cho cuộc sống. Sống tốt để sau khi nằm xuống khỏi hối hận.
 Suy nghĩ vẩn vơ, tôi chợt nhớ ra câu truyện được kể trong một Khóa Nazareth. Thuyết trình viên kể rằng, trước đây bà thường dành 1 hoặc 2 tháng xa nhà để trông nom cho các con bà sau khi sinh nở. Nhưng gần đây bà chỉ dành 1 hoặc 2 tuần cho các con trong những trường hợp như vậy. Các con bà có hỏi tại sao, thì bà trả lời: “Má nghĩ đã đến lúc má cần dành nhiều thời gian cho ba các con. Ba các con lúc này mới thật sự cần má. Miếng cơm manh áo của ba, giấc ngủ và sức khỏe của ba luôn luôn là điều mà má phải quan tâm. Ba má nay đã cao tuổi, thời gian còn ở với nhau được bao lâu, nên má thấy cần ba, và ba cũng cần má.”
 Đúng vậy, câu trả lời của bà rất ý nghĩa và đánh động tôi rất nhiều. Và nghĩ đến điều này tôi càng thấy thương cho các cặp vợ chồng trẻ mà không hiểu sao họ lại coi nhau như cỏ rác, như kẻ thù, và như những tạo vật đáng ghét. Cãi vã, chửi rủa, và làm cho nhau đau lòng là những chuyện thường ngày xảy ra mà họ không hề để ý quan tâm tới. Nhưng sẽ có một ngày mà nếu không nghĩ lại, họ sẽ hối hận rất nhiều.
 Cũng một câu truyện trong nhiều câu truyện mà tôi vẫn nghe về đời sống hôn nhân, về những khó chịu, về những hiểu lầm, về những xích mích giữa vợ chồng. Nhưng trong những cái làm cho nhau khó chịu ấy, lần này tôi được nghe một nhận xét tích cực, và xây dựng. Truyện do một người vợ trẻ kể lại:
 “Tôi thường ngày rất khó chịu và hay cằn nhằn chồng tôi vì anh có cái tật ngủ ngáy to. Bình thường thì cũng không đến nỗi nào, nhưng những đêm mất ngủ thì tiếng gáy của anh là một tra tấn dã man đối với người mất ngủ như tôi. Những đêm như vậy tôi khó chịu và ghét anh vô cùng. Nhưng gần đây thì tôi không còn thù ghét tiếng ngáy đó nữa, mà ngược lại, bất cứ lúc nào thức giấc ban đêm mà tôi không nghe tiếng gáy đó là tim tôi đập thình thịch, và ngớ ngẩn suy nghĩ không biết chuyện gì xẩy ra cho anh.
 Thời gian gần đây tôi thường bị lo lắng, hốt hoảng, và sợ hãi. Chuyện lớn, chuyện nhỏ, chuyện quan trọng, chuyện tầm thường, chuyện trong nhà, chuyện ngoài ngõ hễ cái gì đập vào mắt tôi, lọt vào lỗ tai tôi đều làm cho tôi suy nghĩ và lo lắng. Tôi trở thành mất ăn, mất ngủ, và mất hết nghị lực để sống.
Nhưng người mà phải gánh chịu mọi dằn vặt, kêu ca, cằn nhằn, khó chịu từ tôi đó chính là chồng tôi.
Tôi đã được khuyến khích đi gặp những bác sỹ chuyên môn và uống những thứ thuốc đắt tiền, nhưng cũng chẳng giúp gì ngoại trừ tôi phải trút đổ trên đầu chồng tôi hết mọi thứ lo lắng, bực bội trong tôi, họa may tôi mới được nhẹ nhõm một chút.
Thì ra, chồng tôi chính là cái thùng rác để tôi trút bỏ mọi thứ ngổn ngang trong cuộc sống vào đó.
Cho đến một ngày tôi bừng nhận ra tôi đã gây đau khổ cho chồng tôi quá nhiều. Tôi hối hận, và tôi cảm thấy hết sức lo lắng.
Tôi lo lắng cho sức khỏe của anh cũng như tôi đang lo lắng cho chính mình. Tôi sợ rằng điều mà tôi gây ra cho anh sẽ làm anh sớm bỏ tôi hơn là do căn bệnh quái ác của tôi khiến cho tôi phải bỏ lại anh. Tôi vẫn thường nghe nói, những người chăm sóc cho người bệnh thường lại chết trước người bệnh. Và điều này khiến tôi chợt tỉnh. Nó giúp tôi từ từ bình phục cùng với sự giúp đỡ, thương yêu và lo lắng của người chồng rất mực yêu thương tôi.
 Cũng từ đó, mỗi đêm tôi đều ôm sát lấy anh dù là trong giấc ngủ vì sợ rằng anh sẽ vuột mất. Nhất là mỗi đêm tôi phải để ý, nghe ngóng từng hơi thở, tiếng ngáy của anh. Tiếng ngáy của anh lúc này đối với tôi có một ý nghĩa rất tuyệt vời. Nó bảo tôi rằng anh hãy còn khỏe mạnh, đang ngủ say bên tôi, và vẫn còn đang sống với tôi. Tiếng ngáy làm tôi yên tâm. Làm tôi thấy hạnh phúc”.
Có những mối tình già mà người này không thể quên săn sóc cho người kia. Có những mối tình trẻ mà tiếng ngáy đã có lần làm khó chịu nhưng bỗng trở nên âm thanh mang lại hạnh phúc cho nhau.
Cái đó gọi là tình yêu. Là quan tâm và lo lắng cho nhau.
Là vợ chồng, và là một xương một thịt. Còn gì trên đời đáng yêu, đáng quí, và đáng gìn giữ hơn người chồng, người vợ. Nhưng cũng không biết trên đời có bao nhiêu người đã khám phá, tiếp tục khám phá và trân quí món quà thiêng liêng nhưng cũng rất vật chất này? Hay phải chăng phải đợi đến khi không còn thấy mặt nhau, nghe tiếng nhau, nghe tiếng ngáy của nhau mới hốt hoảng, mới đau khổ đi tìm.  
“Có tốt với tôi thì tốt với tôi bây giờ 
Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi xa người 
Đừng đợi ngày mai đến khi tôi phải ra đi 
Ôi muộn làm sao nói lời tạ ơn 

Nếu có bao dung thì hãy bao dung bây giờ 
Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi xa đời 
Đừng đợi ngày mai biết đâu tôi nằm im hơi 
Tôi chẳng làm sao tạ lỗi cùng người

Có nhớ thương tôi thì đến với tôi bây giờ 
Đừng đợi ngày mai lúc mắt tôi khép lại 
Đừng đợi ngày mai có khi tôi đành xuôi tay 
Trôi dạt về đâu, chốn nào tựa nương 

Nếu có yêu tôi thì hãy yêu tôi bây giờ 
Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi qua đời 
Đừng đợi ngày mai đến khi tôi thành mây khói 
Cát bụi làm sao mà biết lụy người.”

Tiếng hát của ai đó qua nhạc phẩm “Nếu Có Yêu Tôi” của Trần Duy Đức vang vọng trong đêm khuya như âm vang tiếng ngáy của người chồng trẻ. Tiếng gáy mà theo vợ anh là “Tiếng ngáy làm tôi yên tâm. Làm tôi thấy hạnh phúc”.
Cũng như thức tỉnh cái nhìn của những cặp vợ chồng sau những năm dài chung sống:
“Ba má nay đã cao tuổi, thời gian còn ở với nhau được bao lâu, nên má thấy cần ba, và ba cũng cần má.”

Đúng vậy, hạnh phúc luôn ở bên ta, quanh quẩn bên ta trong người chồng, người vợ mà hàng ngày gặp gỡ, chỉ cần ta :
thay đổi thái độ,
thay đổi cái nhìn,
và thay đổi lại phán đoán về người đó.

Ấn Độ: nữ tu Rani Maria sắp được phong chân phước
Giáo Hội sắp có thêm một tân chân phước, đó là Nữ tu Rani Maria Vattalil, người bị đâm chết vì giúp người nghèo.
Hôm 23-3, Đức Thánh cha Phanxicô “ký đơn đề nghị” của Bộ Phong Thánh công bố “sắc lệnh tử đạo” đối với nữ tu dòng Franciscan Clarist (1954-1995), và phong chân phước cho nữ tu. Xơ bị kẻ sát nhân đâm 54 nhát dao. Radio Vatican nói đến sự tha thứ của gia đình nữ tu đối với kẻ sát nhân: qua một hành vi tượng trưng, một trong các cô em của nữ tu đã nhận kẻ sát nhân là “em”.
Rani Maria sinh ngày 29 tháng 1-1954, xơ là con thứ nhì trong một gia đình có 7 người con ở  Pulluvazhy, một làng nhỏ gần Kochi, thủ đô thương mại của Kerala. Năm 1972, xơ vào Dòng Clara Phanxicô ở Kidangoor, hai năm sau xơ khấn lần đầu. Xơ chọn tên Rani (Nữ Vương) Maria. Năm 1975 xơ bắt đầu truyền giáo ở Bijnore, Bắc Ấn, năm 1992 xơ đến Udainagar, quận Dewas, ở đây xơ làm việc với các nông dân không có đất, đấu tranh để các nông dân có được quyền cho mình và được lãnh lương đúng. Một cuộc đấu tranh không làm cho các chủ đất bằng lòng.
Ngày 25 tháng 2-1995, Samundhar Singh, một nhân viên của các chủ đất đâm xơ trên xe buýt. Lúc đó xơ 41 tuổi. Khi xơ chạy ra khỏi xe buýt, tên sát nhân đuổi theo và đâm xơ. Xơ chết trên vệ đường Nachanbore Hill, gần Indore, xơ Rani Maria tiếp tục kêu: “Giêsu! Giêsu!” cho đến hơi thở cuối cùng.
Gia đình của xơ Rania Maria đã làm trò cười cho dư luận khi tha thứ cho kẻ sát nhân Samundhar Singh, biến Samundhar thành “em trai” của họ: Cô em của xơ Selmy Paul, cũng tu cùng Dòng đã kết “rakhi” với kẻ sát nhân, một biểu tượng thiêng liêng của tình huynh đệ và che chở theo phong tục Hinđu. Và bà Eliswa, mẹ của xơ Rani Maria, cũng đã vào tù thăm kẻ sát nhân, hôn tay người đã giết con mình.
Hành vi này đã làm cho Samundhar chấn động, anh ăn năn hối cải về hành động của mình. Bây giờ sau khi ở tù xong, anh có đời sống gương mẫu trong làng của mình. Năm 2013, phim tài liệu “Quả tim của kẻ giết người” (The Heart of a Murderer), kể câu chuyện tội ác và ăn năn hối cải của Samundhar được giải thưởng Liên hoan phim thế giới về hòa hợp tôn giáo.    Giuse Nguyễn Tùng Lâm chuyển dịch

Phép lạ của hai Chân Phước thiếu nhi Phanxicô và Giaxinta
VATICAN.  Hai Chân Phước thiếu nhi Phanxicô và Giaxinta Marto được công nhận phép lạ và sắp được phong Hiển thánh.
Với phép của ĐTC, hôm 23-3-2017, Bộ Phong Thánh đã công bố sắc lệnh nhìn nhận phép lạ nhờ lời chuyển cầu của hai Chân Phước đã được Đức Mẹ hiện ra tại Fatima cách đây 100 năm cùng với chị họ Lucia, đó là Phanxicô Marto, sinh ngày 11-6-1908, qua đời ngày 4-4-1919, và Giacinta Marto, sinh ngày 11-3-1910, qua đời ngày 20-2-1920.
Hai thiếu nhi đã được thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong chân phước tại Đền thánh Fatima ngày 13-5 Năm Thánh 2000.
    Nhiều người hy vọng ĐTC Phanxicô sẽ chủ sự lễ phong Hiển Thánh cho hai vị trong thánh lễ ngày 13-5-2017 tới đây tại Fatima, tuy nhiên chưa có thông cáo chính thức nào của Tòa Thánh về vấn đề này.
Cũng ngày 23-3-2017, Bộ Phong Thánh đã công bố 6 sắc lệnh khác liên quan đến các án phong khác:
- Sắc lệnh nhìn nhận phép lạ nhờ lời chuyển cầu của Chân phước Angelo da Acri, LM thuộc dòng Capucino (1669-1739)
- Sắc lệnh nhìn nhận cuộc tử đạo của Cha Giuse Maria Fernández Sánchez, và 32 bạn thuộc dòng Lazzariste và 6 giáo dân thuộc Hội Ảnh Vảy Đức Mẹ Maria tử đạo năm 1936 trong thời nội chiến Tây Ban Nha.
- Sắc lệnh nhìn nhận cuộc tử đạo của Nữ tu Regina Maria Vattalil, dòng Clarissa Phanxica, tử đạo ngày 25-2-1995.
- Ba sắc lệnh còn lại nhìn nhận các nhân đức anh hùng của ba vị tôi tớ Chúa.
Sau cùng, ĐTC chấp thuận đề nghị của các Hồng Y và GM thành viên Bộ phong thánh về việc phong hiển thánh cho
- 30 vị tử đạo ở Brail ngày 16-7-1645 và 3-10-1645, đứng đầu là cha Andrea de Soveral và Matteo Moreira.
- Ba thiếu niên tử đạo: Cristoforo, Antonio và Giovanni, bị giết vì đức tin ở Mêhicô năm 1529.         
(G. Trần Đức Anh OP, RadioVaticana)
Các nguyên tắc ăn uống cơ bản cải thiện sức khỏe và chất lượng cuộc sống
Để cải thiện sức khỏe và chất lượng cuộc sống, bạn cần lưu ý các nguyên tắc ăn uống cơ bản do chuyên gia khuyến cáo. 
Giữa vô vàn thực phẩm, bạn phải tự mình phân định cái gì nên và không nên ăn. Điều đó cần rất nhiều thời gian để bạn tìm hiểu kỹ và rút ra bài học thực dưỡng cho bản thân. Trên hết, bạn cần nắm bắt những nguyên tắc ăn uống sau đây để cuộc sống luôn khỏe mạnh, theo Telegraph.
Giảm đường Cần giảm tối đa lượng đường nạp vào cơ thể hoặc bỏ hoàn toàn nếu bạn đang cố giảm cân. Ăn ngọt có liên quan đến nhiều bệnh mạn tính, đặc biệt là tiểu đường và ung thư.
Sạch và tự nhiên Bạn cần lưu ý chọn mua thực phẩm tươi sống tự nhiên và tránh đồ đóng hộp. Nhiều thực phẩm chế biến sẵn hầu như không có giá trị dinh dưỡng.
Tăng cường omega-3 Hãy giữ một chế độ ăn đơn giản xoay quanh thịt, cá, trứng, rau cải, gạo nâu (gạo lứt) và salad. Đây là những thực phẩm có chứa a xít béo omega-3. Để tăng cường omega-3, bạn có thể ăn nhiều loại cá béo như cá hồi, cá trích, cá mòi... Axít béo omega-3 trong các loại cá trên có chức năng làm giảm nguy cơ loạn nhịp tim và xơ vữa động mạch. Nên ăn cá béo tối thiểu 2 lần/tuần.
Cân nhắc với bánh mì Dù bánh mì là thực phẩm đã trở nên quá quen thuộc và phổ biến trong các bữa ăn, nhưng bạn cần biết là cơ thể chúng ta không giỏi tiêu hóa bột mì trong các sản phẩm hiện đại. Do đó, bạn nên hạn chế sử dụng loại thực phẩm này.
Trần Ka ( báo Thanh Niên Online)
Thứ Sáu đầu tháng 07/04: thánh Gioan La san , linh mục
Chúa nhật Lễ Lá 09/04: Tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu

THÔNG TIN : Thứ Sáu đầu tháng 07/04: Thánh Lễ :17g30 và 19g 30 dành cho giới trẻ liên xứ. 

Không có nhận xét nào: