CHÂN THIỆN MỸ MẾN CHÀO CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM

Thứ Ba, 18 tháng 3, 2014

Nhân ngày giỗ đầu -15.3.2014- kính nhớ cụ Phạm Đình Khiêm



VRNs(18.3.2014) – Sài Gòn – Có những người trời phú cho khả năng gợi ta nhớ, và liên tưởng rất nhiều điều. Cụ Phạm Đình Khiêm là một người như thế đối với tôi. Nếu chỉ có nhớ và liên tưởng suông có lẽ tôi chẳng nói làm gì, hay chỉ ghi lại cho riêng mình, nhưng như St.Exupéry viết “ cái cốt yếu là cái vô hình, cái không thấy được” (l’essentiel est invisible). Cụ Khiêm gợi nhớ, mà từ cái nhớ ấy lại như cảm thụ cái không thấy được, cái vô hình. Tôi may mắn có mặt ở tu viện Kỳ Đồng, Sài Gòn, đúng ngày lễ giỗ đầu cho cụ, và được tham dự thánh lễ cùng với gia đình và rất đông những người đã quen biết cụ. Nhớ cụ ngày trước viết rất nhiều bài cho tôi đăng lên Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, tôi xin có mấy hàng này để lễ cụ trong ngày giỗ đầu.
Những năm cuối đời cụ ở Sài Gòn, tôi sống cách xa ở miền Bắc, vậy mà cái miền Bắc ấy lại gợi nhớ cho tôi không chỉ về cụ, mà đến cả từng mảng rộng trong đời sống Giáo Hội. Tôi nói đến cái không thấy được, cái vô hình là vì vậy. Chẳng hạn tôi về thành phố quê hương Nam Định. Ngôi nhà thờ nhỏ bé và những cơ sở từ xa xưa còn lại. Nối tôi với một quá khứ mà tôi không được chứng kiến, có Đức Cha Lê Đắc Trọng và Cha Chu Văn Minh, nay cũng là giám mục phụ tá Hà Nội kế vị Đức Cha Trọng. Qua hai đấng ấy, tôi như được đi ngược thời gian lên đến thời cụ Khiêm còn thanh niên.
Cụ Phạm Đình Khiêm bên bàn làm việc khi còn sống
Cụ Phạm Đình Khiêm bên bàn làm việc khi còn sống
Đó là thời vị thừa sai người Pháp, cha Cao tức André Vacquier, tập họp những thanh niên Công giáo, mở thư viện lớn, xuất bản Nguyệt San thanh niên Công giáo, lập đoàn Hướng đạo, khuếch trương các công tác xã hội… Rõ ràng vị thừa sai người Pháp có cao vọng đào tạo những lớp trẻ ưu tú sau này gánh vác tương lai Giáo Hội. Ví dụ như đồng thời với Phạm Đình Khiêm nhưng trẻ hơn, và cùng sống bên Cha Cao, có Phạm Hân Quynh sau này là một linh mục có nhiều tác động đặc sắc, những năm hết sức khó khăn và khắc nghiệt của giáo hội miền Bắc. Năm 1939 đó Phạm Đình Khiêm chưa đầy 20 tuổi. Anh say sưa dìm mình vào kho sách của cha Cao và cảm thấy sức hấp dẫn của những công trình nghiên cứu và của lĩnh vực truyền thông sách báo. Cũng chính vì thế mà anh đã ghi tên sang tận Paris để học khoa báo chí hàm thụ (cours de journalisme par correspondance). Vị thừa sai cũng như những thanh niên sôi nổi ở Nam Định đều nuôi bao nhiêu ước mơ cho một giáo hội tương lai huy hoàng.
Nhưng có Nhân định mà cũng có Thiên định. Và Nhân định thì không thể thắng Thiên. Cha Cao hay anh Khiêm có những ước mơ đang dậy men. Nhưng thế chiến thứ hai nổ ra, quân Nhật vào Đông Dương, rồi Nhật với Pháp gờm nhau. Pháp núng thế động viên quần trừ bị. Cha Cao còn trong độ tuổi cũng phải gia nhập quân ngũ, cấp bậc thiếu úy. Lúc ấy thì những lực lượng cách mạng Việt Nam cũng đang hình thành. Trong một hoàn cảnh bí mật cha Cao đã bị thủ tiêu không tìm thấy xác vào năm 1943. Xét ra, Cha Cao cũng phải thành hạt giống gieo xuống lòng đất, như bao nhiêu hạt giống khác vô danh…
Về qua Nam Định, tôi lại nghĩ đến những hoài bão của thế hệ xa xưa ấy. Bảo là đứt gánh giữa đường cũng được. Nhưng nói vậy mà không phải vậy, vẫn có một cái gì truyền nối. Trước khi cha Cao thảm tử một năm, Phạm Đình Khiêm đã thành chủ bút của bán Nguyệt san Thanh Niên, và chèo chống được đến năm 1945 thì biến thành Thanh niên chuyên san và đã có tác phẩm đầu tay “Hành Động xã hội của Giáo Hội qua các thời đại và ở Việt Nam”, tựa của cụ Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, thuộc viện Pháp Quốc Viễn Đông Bác cổ, xuất bản ở Nam Định năm 1945. Rõ ràng đây là kết quả của những năm tháng miệt mài bên cố Cao. Nó nói lên phần đóng góp của giáo hội cho xã hội và dân tộc. Nó là chứng tích của một thời tuổi trẻ hăng say tha thiết.
Sau đó chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Nhóm trẻ Nam Định tứ tán. Không còn là điểm hội tụ, thì nhóm Nam Định lại có mặt rải rác ở nhiều nơi trong nước, như Phạm Hân Quynh bấy giờ đã là chủng sinh Xuân Bích ở Hà Nội, còn Phạm Đình Khiêm thì di cư sang Hưng Yên. Gia đình ghi lại “về Hưng Yên với hành trang duy nhất: một cái cặp đựng quyển sách tiếng pháp Ma Mère (Mẹ tôi) để có thể ghé đâu dựng đó”. Thì ra ham viết, ham truyền thông đến thế! Không thấy ghi thêm chi tiết xem tay trắng như vậy thì làm thế nào tục bản tờThanh Niên ngay từ tháng 10.1946. Thế là đã chí cốt với cái nghiệp viết báo đạo rồi, (còn cuốn Mẹ tôi của cha Schrijvers CSsR thì đã xuất bản ở Huế lần đầu 1949).
Từ đó về sau liên tục thấy Phạm Đình Khiêm hoạt động trong lĩnh vực báo chí. Năm 1948 đồng sáng lập nguyệt san Trái Tim Đức Mẹ với Đỗ Sinh Tứ ở Hà Nội. Cuối 1949, lại vào Sài Gòn chủ trương báo Phụng Sự cùng với Phạm Đình Tân. Năm 1950 Đức Giáo Hoàng Pio XII mở năm thánh và công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác về trời. Nghe nói năm đó ngài cũng chứng kiến lại phép lạ Mặt Trời Fatima trong hoa viên Vatican.
Phạm Đình Khiêm được diễm phúc có mặt ở Roma để mừng Năm Thánh. Từ đó ông củng cố và tăng cường lòng sùng kính đặc biệt với Đức Mẹ và sứ điệp Fatima, một kiểu sùng kính dạt dào đã quyện vào ông suốt đời. Nhưng dù thế nào cũng không quên cái nghiệp báo chí. Sau Roma ông lưu lại Paris học hỏi với một số cơ quan báo chí Công giáo Pháp thời ấy đang phong phú. Về nước ông gia nhập Việt tấn xã làm phóng viên Pháp ngữ, phóng sự chiến trường, sát cảnh với những nhà báo quốc tế của AFP, Le Figaro, Paris Match, Reuters, AP. Từ 1954 cho đến 1975 ông là công chức trong ngành báo chí.
Chính trong thời kỳ này, sự gắn bó với Đức tin và Giáo hội khiến cho ông hoàn thành được một số tác phẩm nguyên cứu và chuyên đề có giá trị. Năm 1958, ông cho ra cuốn “Minh Đức Vương Thái Phi”, tiểu sử bà Thái Phi của chúa Nguyễn Hoàng. Năm 1959, đến lượt “Người chứng thứ nhất” khảo cứu về vị tử đạo tiên khởi Đàng trong, Andre Phú Yên (1625 – 1644). Năm 1961, ông cùng với Nguyễn Khắc Xuyên và Andre Marillier soạn tác phẩm “Giáo sĩ Đắc lộ và tác phẩm quốc ngữ đầu tiên” trong đó in lại trọn cuốn “Phép giảng tám ngày – Cathechismus” của Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ). Ngoài ra ông còn những biên khảo chuyên đề như: “Từ Đèo Cả đến sông Gianh – theo dấu hai bà Ngọc Liên-Ngọc Đỉnh” (Văn Hóa nguyệt san 9.1959). “Đi tìm địa điểm và di tích hai thành cổ Quảng Nam và Phú Yên đầu thế kỷ XVII(Khảo cổ tập san 1.1961). “Xã hội Việt Nam thế kỷ XVII dưới mắt Giáo sĩ Đắc Lộ” (khảo cổ tập san 2.1961). “Une grande page d’histoire oubliée du Vietnam… (Sài Gòn 1974), nghiên cứu về lịch sử ngoại giao giữa triều đình Huế và triều đình Dudong (Thái Lan).
Để viết tác phẩm về bà Minh Đức Vương Thái Phi và André Phú Yên, khoảng những năm 1958, 1960 ông đã đi nghiên cứu khảo sát thực địa và phát hiện di tích hai thành cổ Phú Yên và Quảng Nam thế kỉ XVII. Trên kia tôi có cảm nghĩ rằng ông Phạm Đình Khiêm gợi cho ta rất nhiều điều, không chỉ những điều thuộc thời đại ta mà cả những điều chìm sâu trong quá khứ. Không có những chuyến đi điền dã và rất nhiều công trình liên lạc tìm tòi tài liệu, hình ảnh từ nước ngoài: Rôma, Paris, Áo Môn, Lisboa… đúc kết thành tác phẩm của ông, đã mấy người trong chúng ta nghe nói đến bà Minh Đức Vương Thái Phi hay công chúa Ngọc Liên?  Công của ông không phải chỉ là gợi lại quá khứ với những biến cố thô mộc. Công của ông là làm cho ta cảm thấy trong cái quá khứ mù mịt biệt tăm ấy, bỗng bật lên những lời cầu nguyện giống như ta, bà Minh Đức hay bà Ngọc Liên cùng với ta chung một lời kinh Lạy Cha, một lời kinh Tin Kính. Ta không còn chiêm ngắm những bức tượng cổ, nhưng nghe thấy một nhịp thở tâm hồn, ta biết rằng vẫn có đấy một sự sống vĩ đại lưu truyền. Quá khứ không chết. Quá khứ vẫn là một mạch nước ngầm. Cũng vậy, cuốn “Giáo sĩ Đắc Lộ” cho ta như sống lại tinh thần và ngôn ngữ của vị thừa sai từ 300 năm trước ở Thăng Long Kẻ Chợ.
Tôi không có ý nói chỉ có mấy tác phẩm đó của ông, bởi trước ông, đồng thời với ông và sau ông vẫn còn nhiều công trình nghiên cứu về những đề tài ấy và còn cần có thêm nữa, nhưng phải công nhận là ông đã có công phổ biến cho bạn đọc Công Giáo những kiến thức mà chúng ta coi như không phải nhu yếu với đức tin, và do đó dễ bỏ qua, dễ quên nếu có biết, nhưng nghĩ lại đó là những nét phong phú thuộc về mầu nhiệm Hội Thánh không công, như thư Do Thái viết: “Anh em đã đến với linh hồn những người công chính, đã được nên hoàn thiện” (Dt 12,23)
(Còn nữa)
Lm. Máthêu Vũ Khởi Phụng

Không có nhận xét nào: