Đề tài này đưa chúng ta đến chóp đỉnh của Cựu Ước – Thiên Chúa hứa ban một vương quốc vĩnh cửu cho Đavit.
Như chúng ta sẽ thấy, giao ước với Đavit
bàn bạc trong mỗi trang sách của phần còn lại của Thánh Kinh – kéo dài
cho đến trang cuối cùng của Sách Khải Huyền, nơi Chúa Yêsu cho thấy Ngài
là “gốc và con đẻ của Đavit”, trong giao ước (x. Kh 22,16).
Sẽ thật sự hữu ích khi chúng ta tóm tắt giao ước với Đavit làm điểm xuất phát cho đề tài này.
Chúng ta đã nói những câu chuyện trong
Thánh Kinh là một lịch sử cứu độ – Thiên Chúa lập kế hoạch và mong muốn
ban phúc lành, đó là món quà cuộc sống thần linh của Ngài trên mọi thụ
tạo.
Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo nói:
“Từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc thời gian toàn bộ công việc của
Thiên Chúa là một chúc lành. Từ các bài Thánh vịnh, thánh ca phụng vụ,
các tác giả lấy cảm hứng từ việc công bố kế hoạch về ơn cứu độ như một
lời chúc phúc lớn của thần linh” (x. GLCG 1079).
Các tác giả lấy cảm hứng từ kế hoạch và hành động cứu rỗi của Thiên Chúa là chúc phúc, từ đó mở ra một chuỗi các giao ước.
Qua các giao ước cho thấy Thiên Chúa là
ai, chúng ta là ai, ý nghĩa của cuộc sống cá nhân của chúng ta, và số
phận của cuộc sống từng thành viên trong nhân loại. Thiên Chúa liên quan
đến nhân lọai, và mỗi người chúng ta, cách cá nhân, bằng các giao ước.
Tiền đề này được thể hiện ngay cả trong Cựu ước lẫn Tân ước của Thánh Kinh: giao ước.
Chúng ta đã xác định năm giao ước trong
Cựu Ước: với Adam và sáng tạo, với ông Noê, với tổ phụ Abraham và dòng
dõi người, với Môsê và Israel, và cuối cùng, với Đavit và Trưởng tử của
Israel.
Trong một nghĩa nào đó, các giao ước này
là tất cả các khía cạnh của một giao ước duy nhất – được tiên tri Đaniel
gọi là “giao ước thương xót” của Thiên Chúa (x. Đn 9,4,27; 11,30,32) –
những gì cuốn sách cuối cùng của Thánh Kinh gọi là “Tin Mừng vĩnh cửu”
để … những người sống trên trái đất, để mọi quốc gia, bộ lạc, mọi người
(x. Kh 14,6).
Giao ước bắt đầu với tất cả chúng sinh,
và đặc biệt là Adam và Eva (x. St 1,28), đại diện của nhân loại. Giao
ước này được gia hạn trong giao ước với ông Noê (x. St 6,18, 9,9,11).
Với giao ước Abraham trọng tâm lịch sử,
một quỹ đạo hướng tới tương lai trong đó tất cả các quốc gia sẽ được ban
Phúc (x. St 17,2.4.7). Giao ước của Thiên Chúa với Israel được thực
hiện theo “lời thánh cho con cháu ông Abraham” (Tv 105,8-12.42). Cũng
vậy giao ước của Thiên Chúa với Đavit được thực hiện để làm mới và thực
hiện lời hứa của Thiên Chúa với Abraham.
Mục đích của Thiên Chúa trong giao ước là
gì? Để ban Phúc cho loài người, biến loài người thành một gia đình duy
nhất của Thiên Chúa, để ban cho mỗi cá nhân những gì Adam đã được – con
trai của Thiên Chúa Tối Cao, người thừa kế vương quốc của thiên đường,
một người cai trị vũ trụ, một tư tế, một hy lễ và lời khen ngợi.
Ngôn ngữ của giao ước trong Cựu Ước là
“hôn nhân” – Thiên Chúa thề rằng chính Ngài là Thiên Chúa của con người
và con người là dân sự Ngài (x. Lv 26,12; Đnl 29,12).
Như lời thề hôn nhân, giao ước của Thánh Kinh tạo ra một gia đình.
Chúng ta thấy điều này bắt đầu – Adam và
Eva sinh con cái “đầy mặt đất” (x. St 1,27). Nhiệm vụ này được gia hạn
trong giao ước với ông Noê (x. St 9,1,9). Tương tự như vậy, Abraham được
gọi là “cha đẻ của các quốc gia” (x. St 17,04; 22,17-18). Với giao ước
của Ngài với Môsê, Thiên Chúa thiết lập Israel là “con trai đầu lòng”,
thông qua đó các dân tộc trên thế giới sẽ được ban phúc lành (x. Xh
4,22).
Giao ước Thiên Chúa thiết lập các công
đoàn có nghĩa là để mở rộng phúc lành của Ngài, gia đình của Ngài mở
rộng cho đến tận cùng trái đất. Tất cả điều này trở thành tâm điểm của
những câu chuyện về Vương quốc Đavít.
Vào Đất Hứa
Giôsuê tại Yericô
Chúng ta mở đầu câu chuyện với sự nghiệp của Giôsuê, người kế nhiệm Môsê (x. Đnl 31,14-15,23; 34,9).
Sách Giôsuê là một cầu nối giữa Ngũ Thư
(các Sáng thế, Xuất hành, Lêvi. Dân số, Đệ nhị luật của ông Môsê) và
phần còn lại của Cựu Ước.
Giôsuê dẫn dân qua sống Yordan và chống lại các vị vua Canaan (x. Gs 1-12), tuyên bố đất Thiên Chúa hứa với Abraham.
Trận đánh nổi tiếng nhất của ông là không
chiến đấu gì cả – cuộc bao vây của Yericô (x.Gs 6). Chúng ta đều biết
câu chuyện: Trong sáu ngày người Do Thái đã tuần hành quanh thành phố
với bảy thầy tế lễ dẫn đầu, mang Hòm Bia Giao Ước đã được lập tại Sinai
khi dân đang đi trong hoang địa (x. Xh 25, 10, 21-22; Ds 10,22, 14,44).
Vào ngày thứ bảy, họ diễu hành xung quanh thành phố bảy lần, sau đó thổi
sừng (tù và), tạo ra một tiếng hét lớn và khiến các bức tường thành
Yericô sụp đổ.
Đây là biểu tượng cuộc chinh phục của
người Do Thái khi họ vào Đất Hứa. Chiến thắng không phải bởi sức mạnh
quân sự, nhưng bằng niềm tin qua sự vâng phục Thiên Chúa, lời ngợi khen
và lời khẩn cầu của tư tế.
Khi dân Do Thái đã được đưa ra khỏi Ai
Cập, qua Biển Đỏ khô chân, dẫn đầu là cột mây, là chính sự hiện diện của
Thiên Chúa. Cũng vậy Giôsuê dẫn dân vượt qua sông Yordan khô chân (x.
Gs 3,13-14). Hai sự kiện diễn ra trong cùng một tháng Xuất hành (x. Gs
3,15; 5,10) và – một lần nữa như với Môsê và Xuất hành – họ làm lễ cắt
bì và cử hành lễ Vượt Qua trước khi băng qua vùng biển (x. Gs 5).
Hòm Bia Giao Ước của Chúa là quan trọng
đối với sứ mệnh của Giôsuê. Như chúng ta thấy trong những cuốn sách của
Giôsuê, Thẩm phán, Các vua và Sử Ký. Hòm bia là một biểu tượng xác định
sự hiện diện của Thiên Chúa với Israel, là dân Thiên Chúa chọn lựa. Hòm
bia là dấu hiệu giao ước của Thiên Chúa với Môsê – Hòm Bia này chứa bình
vàng đựng man-na, cây gậy trổ hoa của ông Aharon và các tấm bia Giao
Ước (x. Hr 9,4). Đó là nơi cư ngụ của Thiên Chúa, là dấu hiệu của sự
hiện diện đích thực của Ngài trong dân Israel.
Trong sách Giôsuê, Hòm Bia không chỉ là
dấu hiệu thần linh của “bộ lạc” hay “quốc gia” Israel. Đó còn là dấu
hiệu của Chúa vũ trụ, của Thiên Chúa muốn ở với tất cả các dân tộc.
Như Giôsuê nói: “Hòm Bia Giao Ước của Vị Chúa Tể toàn cõi đất sắp dẫn đầu anh em mà qua sông Yorđan” (x. Gs 3,10-11).
Những cái gai
Mặc dù chiến thắng của Giôsuê rất nhiều,
nhưng tại thời điểm ông qua đời, Israel chưa chinh phục được tất cả vùng
đất hứa (x. Tl 1,27-36; 3,1-6).
Sự thất bại này bảo đảm toàn bộ đất sẽ trở thành một yếu tố quyết định trong lịch sử tiếp theo của dân Chúa.
Thiên Chúa đã ra lệnh cho Israel xua đuổi
tất cả các cư dân của vùng Canaan và phá hủy tất cả các thần tượng của
chúng (x. Ds 33,50-52). Nếu dân Canaan được phép ở lại, Thiên Chúa đã
cảnh báo, họ sẽ trở thành “gai trong mắt…. và Ta sẽ đối xử với các ngươi
như Ta đã có ý định đối xử với họ” (x. Ds 33,55-56 ).
Chúng ta thường bối rối và cảm thấy khó
khăn để hiểu tại sao Thiên Chúa có thể truyền lệnh hoặc cho phép người
Do Thái để tiến hành cuộc diệt chủng đối với các dân tộc sống ở miền đất
hứa (x. Đnl 20,16-17).
Hàng loạt vụ giết người, tất nhiên đây không phải là cách của Thiên Chúa. Một ví dụ về sự nhượng bộ miễn cưỡng của Thiên Chúa.
Sau đó, dưới chế độ quân chủ của Đavit và
Solomon, lời tiên tri về tính cách thật sự của Israel sẽ được tiết lộ –
một người dân sống trong các quốc gia như một dấu hiệu của sự quan
phòng của Thiên Chúa và sự khôn ngoan.
Nhưng ở giai đoạn này trong lịch sử của
họ, Thiên Chúa biết rằng con cái của Ngài được chọn là không sẵn sang
sống tinh thần hay đạo đức giữa dân ngoại đang sùng bái thần tượng. Ngài
biết họ không bao giờ có thể sống trong đó mà không sa vào ngẫu tượng
(x. Đnl 20,18).
Điểm yếu
Lịch sử trong sách Thủ lãnh.
Các “âm mưu” của Thủ lãnh lặp đi lặp lại
mùa thu của Israel sập bẫy thờ ngẫu tượng, đẩy họ đến việc thờ phượng
của các vị thần của dân Canaan. Toàn bộ sách Thủ Lãnh, trong thực tế,
được xây dựng trên sự “thử thách” lòng trung thành của Israel với giao
ước Thiên Chúa.
Người kể chuyện của Thủ lãnh nói với
chúng ta rằng Thiên Chúa cho phép dân ngoại ở lại miền đất hứa là để
kiểm tra lòng trung thành của Israel với giao ước của mình – “Đây là các
dân ĐỨC CHÚA cho tồn tại, để dùng chúng mà thử thách tất cả những người
Ísrael đã không biết các cuộc chiến tại Canaan là gì… Chúng còn đó để
thử thách Ísrael, xem họ có tuân giữ mệnh lệnh ĐỨC CHÚA đã dùng ông Môsê
mà truyền cho cha ông họ hay không” (Tl 3,1.4).
Giôsuê đã nhìn thấy điểm yếu của Israel.
Vào cuối của cuộc đời mình, như Môsê, ông kêu gọi Israel nối lại giao
ước với Thiên Chúa (x. Gs 24,13-28). Ông nói với những người mà họ phải
lựa chọn – “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ ĐỨC CHÚA, thì hôm nay
anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã
phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người Emôri mà anh em đã
chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC
CHÚA” (x. Gs 24,15).
Nhưng như Môsê, Giôsuê cũng dự đoán họ sẽ không thể giữ giao ước với Thiên Chúa (x. Gs 24,19; Đnl 31,16,24-29).
Ông đã đúng. Israel đã không qua được
cuộc “kiểm tra”. Đó là thông điệp của Thủ lãnh. Đó là lý do tại sao
chúng ta đọc lịch sử dường như lặp lại trong một chu kỳ buồn của tội
lỗi, hình phạt, sự ăn năn, tha thứ, và sa ngã vào tội lỗi một lần nữa.
Sinh tại Belem
Nhưng ngay cả lúc dân Ngài yếu kém, sa
ngã, Thiên Chúa vẫn tiếp tục thực hiện chương trình cứu độ của Ngài. Đó
là những gì chúng ta học trong sách Ruth (x. Rut 1:1).
Ruth xuất hiện bên lề sự kiện chính trị
và quân sự lớn của lịch sử Israel. Điều này cho thấy Thiên Chúa vẫn âm
thầm làm việc trong cuộc sống ẩn dật của những người bình thường – thậm
chí không phải là Do thái, để thực hiện giao ước của Ngài.
Trong quá trình chinh phục Đất Hứa của
Giôsuê, Đức Chúa Trời sử dụng Rakháb – một người ngoại giáo và là một
gái điếm để khởi động – để đảm bảo sự thành công kế hoạch của Ngài (x.
Gs 2; Hr 11,31; Gc 2,25). Và trong suốt thời gian đó, Thiên Chúa lại
phải dùng đến một người phụ nữ ngoại đạo nữa, người đầy tớ gái tên Ruth,
để thúc đẩy các mục tiêu của kế hoạch cứu rỗi – trong cách liên quan
đến Rakháb một lần nữa.
Rakháb có đức tin để nhận ra Thiên Chúa
Israel là Thiên Chúa chân thật (x. Gs 2,11; 6,25). Tương tự như vậy,
Ruth phó mình cho Thiên Chúa của người Do Thái – Rúth đáp: “Xin mẹ đừng
ép con bỏ mẹ mà trở về, không theo mẹ nữa, vì mẹ đi đâu, con đi đó, mẹ ở
đâu, con ở đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên
Chúa của con (x. Rut 1,16).
Ruth kết hôn với Boaz, một người Bêlem
công chính, là con trai của Rakháb (x. Rut 1,1.19; Mt 1,5-6). Ruth sanh
cho Boaz một con trai là Ôbết, người sẽ trở thành cha đẻ của Yesse.
Yesse đã trở thành cha của Đavit (x. Rut 4,17.22).
Đây là lần đầu tiên Thánh Kinh đề cập đến Đavit.
Quyền và những sai lầm của các vị vua
Nữ tỳ Hannah
Việc thành lập vương quốc vĩnh cửu cho
Đavit chiếm phần còn lại của Thánh Kinh – bao gồm cả Tân Ước – được
chuẩn bị từ sách Samuel, người Thủ lãnh cuối cùng của Israel.
Samuel được sinh ra trong thời hỗn loạn
chính trị và đạo đức suy đồi như phản ánh khúc của Thủ lãnh – “Thời đó
Ít-ra-en không có vua, ai muốn làm gì thì làm” (x. Tl 17,06; 18,1; 19,
1; 21,25).
Sự không chung thủy của Israel, diễn tả
qua sự tham lam của tư tế Eli (x. 1Sm 2,12-17. 27-36; 3,11-14), nên đã
bị trừng phạt bởi quân Philitin. Philitin giết chết 4.000 người Israel,
trong đó có con trai độc ác của Eli là Hophni và Phineas, và mang Hòm
bia giao ước đi. Khi nghe Hòm bia bị ăn cắp, Eli tè lật đổ ghế, gãy cổ
và chết (x. 1Sm 4).
Samuel được sinh ra sau lời cầu nguyện của một người đàn bà hiếm muộn và hứa thánh hiến cho Thiên Chúa trước mặt Eli (x. 1Sm 1).
Mẹ của Samuel, bà Hannah dọn đường cho
Đức Maria, mẹ của Chúa Yêsu (x. GLCG 489). Ba lần bà Hannah nhận mình
mình là “tôi tớ” của Chúa. Thuật ngữ này tương tự như Đức Maria sẽ sử
dụng trong biến cố truyền tin Chúa Yêsu nhập thể (x. 1Sm 1,11.16; Lc
1,38). Trong bài hát tuyệt vời của Mẹ Maria, kinh Magnificat, chúng ta
cũng sẽ nghe nhiều tiếng vang lại bài thánh ca tạ ơn của bà Hannah (so
sánh 1Sm 2,1-10; Lc 1,46-55).
Thực hiện một chế độ quân chủ
Samuel con trai của bà Hannah lớn lên
thành một người đàn ông tốt và thánh thiện. Ông đã thành công trong việc
đưa “toàn bộ dân Do Thái” trở lại với Chúa (1Sm 7,2-3).
Nhưng đến lúc tuổi già, dân Israel đã yêu cầu ông bổ nhiệm cho họ một vị vua “như các quốc gia khác” (x. 1Sm 8,5).
Yêu cầu này của Israel là một tội trọng
có tính báng bổ. Nó cho thấy dân Israel vẫn chưa chấp nhận giá trị đặc
biệt của họ là những người được Chúa chọn làm con trai đầu lòng của
Ngài.
“Không phải nó từ chối ngươi”. Thiên Chúa nói với Samuel. “Chúng từ chối Ta là vua của chúng” (x. 1Sm 8,7; 12,12.17.19-20).
Môsê đã tiên đoán mọi người sẽ muốn có
một ông vua. Thậm chí ông còn quy định bất kỳ vua Israel nào cũng phải
thực sự phục vụ mục đích của Thiên Chúa – vua phải sao lại cho mình một
bản thứ hai của luật này vào một cuốn sách, sao y bản các tư tế Lêvi
truyền lại. Luật này sẽ ở bên vua, vua phải đọc mọi ngày trong đời mình,
để học cho biết kính sợ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của vua, biết giữ mọi lời
trong Luật này và mọi thánh chỉ ấy, và đem ra thực hành (x. Đnl
17,14-20).
Người Do Thái không tìm kiếm một vị vua
của niềm rằng tin. Họ nói với Samuel họ muốn có một vua “dẫn đầu chúng
tôi và sẽ lãnh đạo các cuộc chiến của chúng tôi” (x. 1Sm 8,19-20). Họ
không nhắc đến Thiên Chúa, họ dường như đã hoàn toàn quên mất thỏa thuận
ban đầu: Israel là một dân thánh, dân tư tế (x. Xh 19,5-6).
Cuối cùng họ cũng có một vị vua họ muốn
là Saul (Sao lê), một ông vua có kỹ năng đánh nhau trong trận chiến
nhưng không quan tâm đến việc thờ phượng theo các điều răn của Thiên
Chúa. Saul đã bỏ qua chỉ dẫn của Samuel và đã tự ý làm tư tế dâng của lễ
– đây là một điều Thiên Chúa không muốn làm vua (x. 1Sm 13,8-13).
Mục tử Israel – Tư tế và Vua
Chúa xức dầu
Chúa từ chối Saul làm vua, nh7ng vẫn để
triều đại của ông tồn tại đến kết thúc cay đắng. Trong khi đó, ông
Samuel lặng lẽ đi xức dầu cho một người kế nhiệm “ĐỨC CHÚA đã tìm cho
mình một kẻ như lòng Người mong muốn” (x. 1Sm 13,14) – Đavit, con trai
của Ysai, cháu trai của Ôbết con trai bà Ruth, một cậu bé vô danh, chăn
chiên sống tại Belem.
Thần Khí của Chúa hoạt động với Đavít khi
ông được xức dầu (1Sm 16,13). Thông qua một loạt sự trùng hợp, Đavitđã
được Saul biết đến như là tráng sĩ dũng cảm, biết kính sợ Thiên Chúa,
như trong trận chiến với với Goliath. Đavit biết rằng “trận chiến là của
Chúa” và “nó không phải chiến thắng nhờ thanh kiếm hay lưỡi giáo mà bởi
Chúa cứu” (x. 1Sm 17,32-51).
Như Samuel, Đavit khiêm tốn và hiền lành,
trung tín với Thiên Chúa, trái ngược hẳn với con người hoang tưởng của
Saul, người đang phát ghen tuông, âm mưu giết Đavit (x. 1Sm 18,11;
19,9-17).
Đavit có hai cơ hội để giết ông Saul,
nhưng Đavit từ chối. Tại sao? Bởi vì, theo ông, dù sao Saul vẫn được
“Chúa xức dầu” làm vua (x. 1Sm 24 và 26).
Saul và con trai của ông bị tiêu diệt
dưới bàn tay của quân Philitin (x. 1Sm 31), Đavit đã thương tiếc ông
Saul (x. 2Sm 1 và 2,4).
Sau khi xác định các lực lượng còn lại
trung thành với Saul, Đavit được xức dầu làm vua của tất cả các chi tộc
Israel, họ ràng buộc mình vào Đavit bằng một lời thề giao ước: “Ở đây
chúng tôi là xương và thịt của ngài” (x. 2Sm 5,1).
Dân gọi Đavit là người được Chúa chọn
lựa, là mục tử làm vua (x. 2Sm 5,2). Đây là lần đầu tiên hình ảnh mục tử
được sử dụng trong Thánh Kinh để ám chỉ nhà lãnh đạo của Israel. Nó sẽ
trở thành một hình ảnh quan trọng trong những lời tiên tri sau này để
nhận ra Chúa Yêsu.
Yerusalem
Như mục tử và vua, Đavit là một nhà lãnh đạo chính trị và tinh thần tuyệt vời.
Đavit chú ý xây dựng sức mạnh và chiến
lược quân sự, đồng thời hướng đến đời sống tôn giáo. Đavit thành lập thủ
đô tại Yerusalem.
Tại sao lại là Yerusalem? Thánh Kinh không cho chúng ta biết chính xác.
Có lẽ Đavit nhớ lại câu chuyện của
Menkisêđê, các tư tế – vua thành Salem, người đã dâng bánh mì và rượu
vang thay mặt cho Abraham (x. St 14,17-23). Cũng có thể Đavit nghĩ đến
Yerusalem như điều ông Môsê đề cập khi ông chỉ huy việc xây dựng một nơi
thờ phượng chính trong “nơi Chúa là Thiên Chúa của an hem lựa chọn như
là nơi ở cho danh Ngài” (x. Đnl 12,4-5.11). Mặc dù Môsê không bao giờ đề
cập đến tên Yerusalem. Truyền thuyết của các Rabbinic (thầy dạy Do
Thái) cho rằng thành phố của tên Đức Chúa Trời là thành phố do
Melchizedek cai trị, mà các Thánh Vịnh của Đavit xác định nó là
Yerusalem (Tv 76,3).
Trong mọi trường hợp, Đavit dường đã biết
rằng Chúa đã chọn Yerusalem cho Hòm bia của Ngài ngự (x. Tv 132,13-14).
Các sự kiện chuyển hóa cho Đavit hành xử như một “Melchizedek mới”.
Một khi Đavit đã đã chọn Yerusalem, ông
đón Hòm Bia Giao Ước của Chúa về đó. Ông nói thẳng thừng, “vì thời vua
Saul, quả chúng ta đã không quan tâm tới điều đó” (x. 1Sbn 13,3).
Đavit dẫn tất cả Israel trong một nghi lễ
tôn giáo vui tươi hân hoan đó Hòm Bia trở về, cùng với việc tế lễ là
ban phúc và phân phát bánh cho dân (x. 2Sm 6,13-19; 1Sbn 15,25-29).
Đavit được khôi phục lại trong người ông
đặc tính “tư tế vương giả” mà Thiên Chúa dành cho Israel (x. Xh 19,3-6).
Ơn gọi đó, chúng ta đã được thấy bị thu hồi khỏi Israel do họ bội giáo,
đi thờ con bò vàng – với kết quả là việc thành lập một đẳng cấp tư tế
riêng biệt, dòng tộc Lêvi.
Đavit mặc phẩm phục tư tế (x. Tl 8,28;
1Sm 14,03, 21,9; 22,18; 23,09). Ông thực hiện nhiệm vụ tư tế là đặt Hòm
Bia Giao Ước trong lều (x. Ds 1,51; 4,1-33), dâng của lễ toàn thiêu (x.
Ds 3,6-8,14-38; 4,47; 6,16-17; 8,14-26), và ban phúc lành (x. Ds
6,22-27; Đnl 10,8, 21,5).
Với Chúa, Đavit đã được phục hồi chức tư
tế vương đế – “đưa lên ở tại Yerusalem” (x. 1Sbn 23,25) – Ông đã sắp xếp
lại những con cháu của Aharôn làm người phục vụ nơi thánh và là các tư
tế, qua đó Thiên Chúa hiện diện (x. 1Sbn 24,3.5.19).
Ông thành lập lại hàng tư tế Lêvi “Vua
Đa-vít cắt đặt một số thầy Lê-vi túc trực trước Hòm Bia của ĐỨC CHÚA để
ngợi khen, tôn vinh và ca tụng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en” (Sbn
16, 4) vào mỗi buổi sáng và buổi tối, và vào những ngày lễ (x. 1Sbn
23,25-32).
Sách thứ nhất Sử biên niên mô tả Đavit vừa là một tư tế thánh thiện vừa là một vị vua chân chính và dũng cảm.
Bắt đầu với Adam, các sách Sử biên niên
cho chúng ta một cái nhìn về lịch sử phụng vụ của Israel cổ đại. Chúng
ta thấy rằng ngay từ ban đầu, Thiên Chúa đã có ý định về một tư tế,
người luôn khen ngợi, hiến tế và sống bằng thánh ý của Ngài. Sách Sử
biên niên mô tả Đavit như nhà lãnh đạo lý tưởng của Thiên Chúa – vị tư
tế vương giả, người cai trị dân, người sáng tác Thánh vịnh, người dẫn
đầu dân chúng thờ phượng Thiên Chúa, và nhất là Đavit là một giáo viên
dạy sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Từ vua Anh Đavít, chúng ta có được một
cái nhìn thoáng qua về thế giới của Thiên Chúa – một con người hòa
quyện giữa linh thánh và trần tục, một người của pháp luật và việc thờ
phượng, của tôn giáo và văn hóa, của Giáo Hội và nhà nước.
Giao Ước vĩnh cửu
Thiên Chúa lập giao ước cuối cùng trong
Cựu Ước với Đavit. Ngài hứa sẽ thiết lập vương triều của Đavit trường
tồn đời đời. Ngài hứa người thừa tự của Đavit sẽ ngồi trên ngai vàng của
Đavit mãi mãi. Ngài hứa sẽ coi người thừa tự của Đavit là con trai của
Ngài (x. 2Sm 7,8-16 và 1Sbn 17, 7-14).
“8Bây giờ ngươi hãy nói với
tôi tớ Ta là Đavít như sau: ĐỨC CHÚA các đạo binh phán thế này: Chính Ta
đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người
lãnh đạo dân Ta là Israel. 9Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với
ngươi; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi. Ta sẽ làm
cho tên tuổi ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt
đất. 10Ta sẽ cho dân Ta là Israel một chỗ ở, Ta sẽ định cư
chúng, và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân
gian ác cũng không còn tiếp tục áp bức chúng như thuở ban đầu, 11kể
từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Israel. Ta sẽ cho ngươi
được thảnh thơi, không còn thù địch nào nữa, ĐỨC CHÚA báo cho ngươi biết
là ĐỨC CHÚA lập cho ngươi một nhà. 12Khi ngày đời của ngươi
đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng
lên kế vị ngươi – một người do chính ngươi sinh ra -, và Ta sẽ làm cho
vương quyền của nó được vững bền.13Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi.14Đối
với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Khi nó phạm lỗi, Ta sẽ
sửa phạt nó bằng roi của người phàm, bằng đòn của con người.15Tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó, như Ta đã cho rời khỏi Saul, kẻ Ta đã bắt rời khỏi mặt ngươi.16Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (2Sm 7, 8-16).
“7Bây giờ, ngươi hãy nói với
tôi tớ Ta là Đavít như sau: ĐỨC CHÚA các đạo binh phán thế này: Chính Ta
đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người
lãnh đạo dân Ta là Israel. 8Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với
ngươi; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi; Ta sẽ làm
cho tên tuổi ngươi sánh được với tên tuổi các bậc vĩ nhân trên mặt đất.
9Ta sẽ cho dân Ta là Israel một chỗ ở; Ta sẽ định cư chúng
và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ và quân gian ác
cũng không còn tiếp tục quấy phá chúng như thuở ban đầu, 10từ
thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Israel, Ta sẽ bắt mọi thù
địch hàng phục ngươi. Ta báo cho ngươi biết là ĐỨC CHÚA sẽ xây cho ngươi
một ngôi nhà. 11Khi ngươi được mãn phần mà về với tổ tiên,
Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi – tức là một trong số các
con ngươi -, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. 12Chính nó sẽ xây nhà cho Ta, còn Ta sẽ làm cho ngai báu của nó vững bền mãi mãi.13Đối
với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con; ân nghĩa dành cho nó,
Ta sẽ không rút lại, như Ta đã rút lại đối với kẻ tiền nhiệm của ngươi. 14Ta
sẽ làm cho nó được kiên vững trong nhà Ta cũng như trong vương quốc của
Ta đến muôn đời, và đến muôn đời ngai báu của nó sẽ được củng cố” (2Sbn
17, 7-14).
Đây là một trong những câu quan trọng nhất trong tất cả Thánh Kinh.
Lời Thiên Chúa hứa với Đavit – những chủ
đề làm con Thiên Chúa, xây dựng đền thờ, và triều đại đời đời – sẽ vang
lên trong suốt phần còn lại của Cựu Ước, và hội tụ cuối cùng trong Tin
Mừng của Chúa Yêsu.
Nhìn từ đầu đến trang cuối cùng của Thánh
Kinh. Bạn sẽ nghe Chúa Yêsu nói về giao ước này, nói rằng chính Ngài là
sự hoàn thành của giao ước: “Chính Ta là Chồi Non và Dòng Dõi Đavít”
(x. Kh 22,16).
Tại sao chúng ta gọi đó là một “giao ước”
khi Thiên Chúa không sử dụng từ này? Vì chính Đavit sau này sẽ nói rằng
Thiên Chúa đã thề ở đây bằng một “giao ước vĩnh cửu” với ông (x. 2Sm
23,05). “Giao ước” của Đavit cũng được tỏ lộ trong các Thánh Vịnh (Tv
89,4-29; 132,12).
Chúng ta nhìn một chút về giáo ước này.
Chúa sẽ thiết lập một căn nhà cho Đavit:
“Nhà” có nghĩa là triều đại hoàng gia, vì vậy điều này có nghĩa là vương
quốc của Đavit sẽ là một triều đại.
Ta sẽ dấy lên người thừa tự của ngươi … và làm cho vương quốc ngươi: con trai của Đavit sẽ cai trị vương quốc của ông.
Nó sẽ xây dựng một ngôi nhà cho Danh Ta: con trai của Đavit sẽ xây dựng một ngôi đền đặt Hòm Bia Giao Ước.
Ta sẽ là cha nó và nó sẽ là con trai Ta:
Từ là con trai Đavit sẽ được thành con trai của Thiên Chúa. Đây là lần
đầu tiên ý tưởng làm con của Thiên Chúa được áp dụng cho một cá nhân
phàm nhân. Trong khi Thiên Chúa đã gọi Israel là con trai đầu lòng của
Người, không ai đã được nêu ra trong Thánh Kinh với danh hiệu là “con
trai của Thiên Chúa”.
Nếu nó sai, Ta sẽ sửa nó …, nhưng tôi sẽ
không rút lại sự ủng hộ của Ta cho nó: Nếu con trai của Đavit phá vỡ
Luật pháp của Thiên Chúa, Ngài sẽ phạt nhưng sẽ không bao giờ chối bỏ
như Ngài đã từ bỏ Saul.
Ngôi nhà của ngươi và vương quốc của
ngươi sẽ mãi mãi bền vững: triều đại của Đavit sẽ không bao giờ kết
thúc. Sẽ luôn có một người thừa kế của Đavit ngồi trên ngai vàng của
mình.
Nhớ lại giáo ước
Giao ước này không chỉ đơn giản là một phần thưởng cho Đavit, vì ông đã trung thành.
Chúng ta phải hiểu điều này như là mắc
xích cuối cùng trong đường dây giao ước của Thiên Chúa đã làm với dân
Ngài trong suốt lịch sử cứu độ được ghi lại trong Thánh Kinh. Trong thực
tế, nó là một giao ước để thực hiện những gì Thiên Chúa giao ước với
Abraham.
Nhớ lại vì sao Thiên Chúa giải thoát dân
Israel từ Ai Cập? Vì là hoa trái của giao ước THiên Chúa thiết lập với
Abraham (x. Xh 2,24; 6,5).
Thiên Chúa hứa sẽ làm cho Abraham là cha
của một loạt các quốc gia, và hứa thêm rằng vua sẽ xuất phát từ dòng họ
con cháu của Abraham. Ngài hứa rằng Ngài sẽ là Thiên Chúa của họ và họ
sẽ là dân của Ngài mãi mãi, và tất cả các quốc gia trên thế giới sẽ được
chúc phúc nhờ con cháu của Abraham (x. St 17,4-8; 22,15-18).
Giao ước Môsê, Thiên Chúa thiết lập giao
ước với ông Môsê tại núi Sinai, đánh dấu những gì chúng ta có thể mô tả
là “giai đoạn đầu” của kế hoạch Thiên Chúa thực hiện cho giao ước giữa
Ngài với Abraham (x. Xh 33,1; Ds 32,11, Đnl 1,8; 9,5; 30,20).
Như vậy, lý do Thiên Chúa ban giao ước
cho Đavit không phải vì lợi ích của Đavit, nhưng Chúa lặp đi lặp lại vì
lợi ích của “dân Người – Israel” (x. 2Sm 7,8.10.11).
Chúng ta lắng nghe cẩn thận cũng cầu
nguyện của Đavit với Chúa. Đây là lời thề trung thành với giao ước của
Thiên Chúa. Nó vang lại lời Môsê.
Giao ước với Đavit là sự tiếp nối của
công trình cứu chuộc vĩ đại của Thiên Chúa thời Xuất hành, thiết lập
Israel là dân Thiên Chúa – một công trình cứu chuộc được thực hiện trong
việc thực hiện lời hứa giao ước của Thiên Chúa với Abraham.
Như Đavit nói: “Ngài nhớ mãi mãi giao ước
của Ngài, mà Ngài đã thực hiện kết nối tới một ngàn đời – Ngài đã thiết
lập cho Yacob theo luật, đối với Israel như một giao ước đời đời” (x.
1Sbn 16,14-18).
Tư tế vương giả đầu tiên sinh ra là
Đavit, bởi giao ước này là không thể tách rời các tư tế vương giả của
Israel, như hạt giống của Abraham và con trai đầu lòng của Thiên Chúa đã
được ban tại núi Sinai.
Giao ước với Đavit thay đổi đặc tính của
dân Thiên Chúa giao ước. Từ một nhà nước quốc gia đến một đế chế trên
toàn thế giới. Nó không chỉ là chính trị và thời gian, nhưng là thân
linh và đời đời. Nhà vua không chỉ là con người, nhưng còn là con Thiên
Chúa.
Chúng ta nghe thấy tiếng nói của Thiên
Chúa hát trong Thánh Vịnh 132: “ĐỨC CHÚA đã thề cùng vua Đa-vít và sẽ
không thất tín bao giờ, thề rằng: ‘Chính con ruột của ngươi, Ta sẽ đặt
lên thừa kế ngai vàng. Con cái ngươi mà giữ giao ước của Ta và mệnh lệnh
Ta truyền cho chúng, thì con cái chúng đến muôn đời cũng sẽ được lên kế
vị ngươi!’ Vì ĐỨC CHÚA đã chọn Xi-on, đã thích lấy chốn này làm nơi
Người ngự” (Tv 132 11-13).
Bước vào Giao ước
Solomon, hình bóng mong đợi
Giao ước Đavít là sự kiện gay cấn trong
lịch sử cứu độ Cựu Ước. Tất nhiên, việc thực hiện kế hoạch của Thiên
Chúa đang còn chờ đợi Chúa Yêsu ra đời và thiết lập Vương quốc của Thiên
Chúa, Giáo Hội Công Giáo.
Nhưng chúng ta có thể phát hiện ở Đavít,
đặc biệt là khi vương triều Đavit được tiếp nối với Solomon, con trai
vua Đavit, một người mang phẩm chất và tính cách Thiên Chúa muốn cho gia
đình của Ngài trên trái đất – ý định này cuối cùng sẽ được thực hiện
trong Giáo Hội Công Giáo.
Thời vua Solomon là một chế độ quân chủ
do con trai Thiên Chúa cai trị (x. Tv 2,7), là tư tế vương giả (x. Tv
110,1.4), xét xử ngôn ngoan (x. 1V 3,19-20).
Vương quốc Đavít là một đế chế quốc tế,
một vương quốc trên toàn thế giới, kéo dài cho đến tận cùng trái đất và
bao trùm tất cả các quốc gia và các dân tộc (Tv 2,8; 72,8.11). Trong một
tiếng vang của lời Thiên Chúa hứa với Abraham và con cháu ông, Thánh
Kinh cho chúng ta biết rằng nhà vua và tất cả các bộ tộc trên trái đất
được thiên nhiên ưu đãi, tất cả các quốc gia” (x. Tv 72,17). Thủ đô
trong Sion, Yerusalem, sẽ trở thành mẹ của tất cả các quốc gia, “tất cả
được sinh ra tại đó” (x. Tv 87,5), tất cả các con trai con gái của Thiên
Chúa trong một gia đình trên toàn thế giới.
Nó là một nước quy ước, không phải nhờ
sức mạnh quân sự, nhưng nhờ phụng vụ và cầu nguyện, trí tuệ và pháp
luật. Phụng vụ và việc thờ phượng của vương quốc được định hình do sự
hiện diện vĩnh cửu của Thiên Chúa nơi Hòm Bia Giao Ước trong đền thờ tại
Yerusalem.
Vua Solomon xây dựng đền thờ trên núi
Moriah [Mo-ri-gia] (x. 2Sbn 3,1). Lưu ý, núi Moriah là nơi Abraham đã
được truyền lệnh hiến tế con trai yêu quý của mình là Isaac (x. St
22,2). Điều rất thú vị nữa là vùng núi Moriah có đồi Canvê [Gongotha],
nơi Chúa Yêsu bị đóng đinh.
Đền thờ, trên đỉnh núi thiêng liêng của
Sion, là “nơi ở …. [của] Thiên Chúa của các vị thần” (x. Tv 84,2,8; 1V
8,27-30). Trong đền thờ của Thiên Chúa, trời đất giao hòa vững chắc (x.
Tv 78,68-69).
Một tính năng của Salomon là “tư tế muôn
đời”. Đây là ơn Thiên Chúa đã hứa với Phineas, cháu trai của ông Aharon
(x. Ds 25,10-13). Solomon khôi phục điều này bằng cách đặt Zadok làm tư
tế và con trai của ông là những người trông coi đền thánh, nơi có Thiên
Chúa hiện diện (x. 1V 2,35).
Đền thờ đã là một nhà cầu nguyện cho mọi
dân tộc. Vua Solomon cầu nguyện: “Ngay cả với người ngoại kiều, không
thuộc về Israel dân Ngài, nếu nó từ phương xa tới vì Danh Ngài, vì người
ta sẽ nghe biết Danh Ngài cao cả, bàn tay Ngài dũng mãnh và cánh tay
Ngài giương cao, nếu nó đến cầu nguyện trong Đền Thờ này, thì từ trời
nơi Ngài ngự xin Ngài lắng nghe và thực hiện mọi điều kẻ ngoại kiều ấy
kêu xin, để cho mọi dân trên mặt đất nhận biết Danh Ngài và kính sợ
Ngài, như Israel dân Ngài và để họ biết là Danh Ngài được kêu cầu nơi
Đền Thờ con đã xây lên đây” (1V 8,41-43).
Cầu nguyện tại đền thờ trở thành một cuộc
gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa hằng sống. “Xin Ngài thương sai phái ánh
sáng và chân lý của Ngài, để soi đường dẫn lối con đi về núi thánh, lên
đền Ngài ngự. Con sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, tới gặp Thiên Chúa,
nguồn vui của lòng con. Con gảy đàn dâng câu cảm tạ, lạy Chúa là Thiên
Chúa con thờ. Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền muộn, xót xa phận mình mãi làm
chi? Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn tán tụng Người, Người là Đấng cứu
độ, là Thiên Chúa của tôi” (Tv 43:3-5).
Phụng vụ của Môsê ở Sinai cần xác tế động
vật làm lễ đền tội cho dân. Còn trong phụng vụ của Sion lại có “hy tế
tạ ơn”. Tiếng Do Thái gọi là Todah, tiếng Hy Lạp là Eucharistia, tiếng
Việt là Thánh Thể (x. 1Sbn 16,4.7-37).
Lễ Vượt Qua, lễ đặc trưng cho phụng vụ
của Sinai, nhớ lại những việc Chúa cứu độ trong cuộc xuất hành. Các
Todah, cũng là một kỷ niệm của ký ức, thường liên quan đến việc dùng
bánh không men và rượu vang. Đó là một lời cầu nguyện, trong đó người
tín hữu tuyên bố hành động trung tín của Thiên Chúa, tạ ơn việc Thiên
Chúa cứu rỗi, và thề rằng bản thân mình đến chết sẽ mãi ngợi khen và
hiến tế cho Ngài.
Todah có thể được nghe trong Thánh Vịnh,
những lời cầu nguyện của hoàng gia và các bài hát của vua Đavít. Ví dụ,
trong bài Thánh Vịnh 116: “Vì Ngài đã giải thoát linh hồn tôi khỏi chết …
Để Bạn tôi sẽ dâng hy lễ tạ ơn … và lời thề của tôi với Chúa …” (x. Tv
116: 8,17-18; 50:13-15; 40:1-12; 51:17).
Trong những hy lễ tạ ơn của vua Đavít,
chúng ta thấy chiều kích thờ phượng thực sự – cách Thiên Chúa muốn người
đàn ông và phụ nữ phục vụ Ngài như vậy ngay từ đầu. Không trong sự hạ
tiện và trong tình trạng nô lệ, không phải với máu của động vật, nhưng
với cả trái tim của họ, toàn bộ cuộc sống của họ để hiến tế cho việc
ngợi khen và cảm tạ, toàn bộ cuộc sống của họ được phó giao cho ý chí và
trái tim của Thiên Chúa: “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng
tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận. Lạy Thiên Chúa, tế phẩm
dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ
chẳng khinh chê (Tv 51,18-19).
“Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật,
nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi, con
liền thưa: Này con xin đến! Trong sách có lời chép về con rằng: con
thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của
con” (Tv 40,7-9).
Thánh Vịnh
Sách Thánh Vịnh diễn tả tâm tình tạ ơn và hiến tế
Truyền thống cho rằng vua Đavit là tác
giả Thánh vịnh. Nhiều Thánh vịnh quả thật của chính ngài mà không chút
nghi ngờ. Tất cả đều phản ánh tâm hồn vua Đavit, nó phản ánh lại trái
tim của Chúa (1Sm 13,14).
Thánh vịnh được dự định để cho mọi người
trong giao ước của Thiên Chúa dung để cầu nguyện hàng ngày, thậm chí
hàng giờ, với một trái tim mới như Đavit, trái tim của Chúa.
Các Thánh Vịnh dạy cho con người làm thế
nào để cầu nguyện với Thiên Chúa – làm thế nào để ca ngợi, cảm ơn, khẩn
xin, và cam kết trung thành với Cha mình là Thiên Chúa. Các Thánh Vịnh
dạy con người trung thành với Thiên Chúa trong kế hoạch giao ước của
Ngài đang diễn ra trong lịch sử cứu độ (x. Tv 78,105-106, 135-136).
Cơ bản giống nhau trong tất cả các Thánh
Vịnh là Cha mong muốn các con cái thấm nhuần tình yêu của Ngài qua việc
họ trung thành với đường lối và Luật pháp của Ngài: “Chúa sẽ dạy con
biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên
Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (x. Tv 16,11).
Các Thánh Vịnh dạy người của Thiên Chúa
để tìm kiếm sự khôn ngoan của Ngài trong Luật pháp (x. Tv 37,31; 90,12).
Thánh vịnh được gắn chặt với các di sản tinh thần lớn khác của vua
Đavít – gọi chung là văn chương Khôn Ngoan trong Thánh Kinh.
Văn chương khôn ngoan của Thánh Kinh –
những cuốn sách Gióp, Châm Ngôn, Giảng viên, Diễm ca, Khôn ngoan và Huấn
Ca – được gán cho Solomon, con trai của Đavit, là tác giả của bốn cuốn
sách.
Sự khôn ngoan của Solomon là một món quà
Thiên Chúa ban (x. 1Sbn 1,7-12). Và danh tiếng về sự khôn ngoan của ông
đã lôi kéo cả Nữ hoàng Sheba và “tất cả các vị vua trên trái đất” phải
tìm kiếm và đến với vua Salomon (x. 1V 10,1-13, 24-25).
Sách Khôn ngoan như viết lại từ bang ghi âm các điều vua Solomon nói với Nữ hoàng và các vị vua của các quốc gia.
Vị trí của các sách khôn ngoan trong bộ
Thánh Kinh như một loại những hướng dẫn của người Cha – Thiên Chúa –
thông qua người con trai thiêng liêng của Ngài là vua, để dạy cho gia
đình trên toàn thế giới cách sống. Điều này được thấy rõ nhất trong sách
Châm ngôn. Sách này trình bày những lời khuyên của một người cha cho
con trai mình (trừ chương 31, được cho là giảng dạy của nữ hoàng, của mẹ
với con trai là nhà vua).
Đây là ý nghĩa của đoạn văn lạ trong lời
cầu nguyện tạ ơn của vua Đavit trong giao ước của Ngài – “Nhưng lạy ĐỨC
CHÚA là Chúa Thượng, Ngài còn coi đó là quá ít; Ngài lại hứa cho nhà của
tôi tớ Ngài một tương lai lâu dài. Phải chăng đó là luật chung cho con
người, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng?” (2Sm 7, 19). Cụm từ trong tiếng Do
Thái là “Tora adam” nghĩa đen là “Pháp luật của nhân loại”. Những gì là
khôn ngoan của luật pháp Thiên Chúa cho nhân loại được thông qua con của
Ngài là vua.
Vua Đavít được thành lập là một vương
quốc phổ quát trên toàn thế giới, vĩnh cửu. Văn chương Khôn Ngoan nhằm
mục đích thực hiện việc đào tạo luân lý và tinh thần của vương quốc này.
Đây là điều lệ của gia đình nhân loại mới mà Thiên Chúa muốn tạo ra
thông qua các giao ước của Ngài với Đavit.
Sách Khôn Ngoan dùng để hướng dẫn người
dân – một người Do Thái công chính – trong đau khổ quá sức của mình, tìm
biết được ý định cứu chuộc: “Đường nẻo của khôn ngoan một mình Thiên
Chúa tỏ, chính Người biết nơi ở của khôn ngoan” (Giop 28. 20)..
Ðó là điệp khúc chúng ta sẽ nghe thấy bên
dưới tất cả các lời khuyên và tư vấn thực tế trong những cuốn sách này:
“Khởi đầu của sự khôn ngoan là kính sợ Chúa” (Kn 9,10) .
Tất nhiên “kính sợ Chúa” không có nghĩa
là co rúm trong sợ hãi trước mặt Chúa. Nó có nghĩa là sự tôn kính và sợ
hãi, sự tin tưởng yêu thương của một đứa trẻ: “Khôn ngoan nào cũng là
kính sợ Đức Chúa, trong mọi khôn ngoan đều có việc thi hành Lề Luật” (x.
Hc 19,20).
Luật Môsê cũng được tìm thấy trong văn
chương khôn ngoan như là sự phản ánh hoàn hảo sự khôn ngoan của Thiên
Chúa. Đôi khi, chúng ta sẽ thấy Khôn ngoan được miêu tả như chính Thiên
Chúa – “Chỉ có một Đấng khôn ngoan rất đáng sợ, ngự trên ngai của Người.
Đó chính là Đức Chúa” (x. Hc 1,8-9).
Hai quốc gia
Bắc-Nam phân chia
Vương quốc bị tan rã sau khi Solomon qua đời. Trên thực tế, chính vị vua khôn ngoan này đã gieo những hạt giống của sự chia rẽ.
Nơi Solomon luôn luôn có một khoảng tối
ẩn dưới sự khôn ngoan đó là lòng ham muốn giàu có, quyền lực, và phụ nữ
vô độ. Ông thu thuế nhiều để nuôi đội quân xây dựng rất lớn. “Số vàng
vua Salomon thu nhập hàng năm là hai mươi ngàn ký”, tương đương 666 yến
vàng (x. 1V 10, 14). Thật thú vị, con số 666 là số của con thú dữ trong
cuốn sách cuối cùng của Thánh Kinh, trong đó cho biết thêm rằng “ngôn
ngoan là cần thiết” để hiểu (x. Kh 13,17-18).
Như cha là vua Đavit, Solomon cũng có một
điểm yếu là phụ nữ. Hãy nhớ rằng, Solomon được sinh ra để Bathsheba, vợ
Uriah. Đavit đã lấy bà làm vợ khi chồng bà chết để tỏ ra yêu mến thuộc
hạ, nhưng thật chất là che dấu tội lỗi của mình (x. 2Sm 11-12).
Mặc dù luật pháp của Thiên Chúa cấm kết
hôn với những người không phải là Do thái, những “vua Solomon yêu nhiều
phụ nữ nước ngoài” – ông có 700 vợ và 300 phi tần. Và Thánh Kinh cho
biết thêm, “các bà ấy làm cho lòng vua ra hư hỏng” (x. 1V 11,1-3).
Khi Solomon chết, Bôam, con trai của ông
lên ngôi, đã từ chối lời cầu xin của các bộ lạc để giảm bớt gánh thuế
nặng nề cho họ. Do đó, họ nổi loạn. Mười trong số mười hai chi tộc, do
Yêrô, tách ra và thành lập một vương quốc phía Bắc – nước Israel – để
lại cho Bôam cai trị hai bộ lạc nhỏ là Yuđa và Benjamin ở miền Nam –
nước Yuđa.
Yuđa hay Benjamin, hay Nhà Đavít là Vương Quốc Miền Nam tiếp tục thờ phượng tại Yerusalem.
Cụm từ “tất cả Israel”, đặc biệt là trong
sách Sử biên niên (x. 1V 12,1; 1Sbn 13,6.8; 15,3; 2Sbn 12,1; 18,16) chỉ
vương quốc Thiên Chúa thiết lập – trước khi bị Bôam chia rẽ – vương
quốc của Đavit, một vương quốc Thiên Chúa hứa sẽ có một ngày phục hồi.
Như vậy, Thánh Kinh nói với chúng ta, “Israel đã nổi dậy chống lại nhà Đavit cho đến ngày nay” (x. 1Sbn 10,19; 1V 12,19).
Điều đó có nghĩa là cuộc ly giáo của Yêrô
và mười chi tộc thuộc Vương quốc miền Bắc (Israel) đã cắt đứt mình khỏi
giao ước của Thiên Chúa với Đavit – giao ước mà theo đó qua mọi thời,
con nhà Đavit sẽ là Vua của Israel, và Israel thờ phượng Thiên Chúa tại
Yerusalem.
Nhưng giao ước với Đavit không biện minh
cho hành vi vô nhân đạo và tàn nhẫn của vua Solomon. Giao ước của Thiên
Chúa không bao giờ nhằm đưa các vua nhà Đavít vượt trên Luật Môsê.
Đavit đã giải thích điều này với Solomon
(x. 1V 2,2-4; 8,25; 9,4-5; Tv 132,12). Lời hứa của Thiên Chúa không phải
là một chi phiếu trắng. Nếu Solomon hoặc bất kỳ vua nào của nhà Đavít
vi phạm pháp luật của Thiên Chúa, Ngài sẽ bị trừng phạt – mặc dù vương
quốc Đavit sẽ không bị xóa sổ (x. 2Sm 7,15-15).
Thiên Chúa đã trừng phạt Solomon bằng cách cho phép cuộc nổi loạn (x. 1V 11,31-39).
Các chi tộc miền Bắc gần như ngay lập tức
đi vào bội giáo. Yêrô xây dựng bàn thờ các thần ngoại giáo sai tại
Bêtên và Đan. Ông còn tái diễn tội lỗi lớn năm xưa: con bò vàng (x. 1V
12, 28-29; Xh 32,4).
Tiên tri/Ngôn sứ
Chú ý rằng Đavit là thước đo cho tất cả
các vua (x. 2V 16,02; 22,2) và cách Thiên Chúa cố gắng để vẫn là “Cha”
của gia đình, dù đó là điểm yếu của dân thường bội phản.
Thời kỳ chế độ quân chủ bị chia cắt,
Thiên Chúa bắt đầu khơi lên các tiên tri, những người nói Lời của Thiên
Chúa cho dân Ngài, để lên án những vi phạm giao ước của họ và kêu gọi họ
ăn năn, quay về với Chúa. Họ cũng đóng một vai trò quan trọng trong
việc giúp tăng cường niềm hy vọng của nhóm dân số sót mà vẫn trung
thành.
Vì vậy, chúng ta thấy Êlia nói tiên tri
tại vương quốc miền Bắc, nói với vua Akháp và Yezebel sùng bái tà thần
của vợ mình. Tiên tri Êlia tham gia một cuộc thách đấu đầy kịch tính với
các tiên tri giả của Baan (x. 1V 17; 2V 1,16). Công trình của Êlia được
Êlisa tiếp tục (x. 2V 2-13).
Cũng trong giữa thế kỷ thứ tám, khoảng
thời gian của triều đại của Yêrô-II (x. 2V 14,23-29), Tiên tri Hôsê lên
án tình trạng ô uế đền thánh với mại dâm và những tập tục của Baan (x.
Hs 4,14, 8,4-6; 10,5-6; 13,1-2).
Tiên tri Amốt cũng lên án sự phản bội và
bất công về kinh tế tại vương quốc miền Bắc và tội lỗi của các quốc gia
(x. Am 1,3-2,3).
Amốt nhắc nhở chúng ta rằng mặc dù Israel
và Yuđa dường như xa Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn mong muốn thực hiện kế
hoạch yêu thương của Tình Cha: “Cả gia đình mà tôi lớn lên từ đất
Ai-cập” (x. Am 3,1).
Vương quốc miền Bắc đã bị Assyria phá hủy
năm 722 trước Công nguyên. Một tài liệu của Assyria mô tả giai đoạn đó
đã trục xuất gần 30.000 người Do Thái.
Thánh Kinh cho chúng ta biết lý do tại
sao nó đã xảy ra: “Điều này xảy ra vì người Do Thái đã phạm tội chống
lại Chúa là Thiên Chúa của họ … bởi vì họ tôn kính các thần khác …. [và]
họ từ chối giao ước mà Ngài đã lập cùng tổ phụ của họ” (x. 2V 17,7-18).
Vua tốt vua xấu
Trong khi Israel bị tan tành, Vương quốc
miền Nam Yuđa đã có được một thời gian ngắn hòa bình, vì tương đối và
trung thành tôn giáo dưới triều vua Hezekiah, một người tốt theo sự
hướng dẫn của tiên tri Isaia và việc rao giảng bốc lửa của vị tiên tri
Mikha (x. Gr 26,17-19).
Nhưng tình trạng suy thoái đạo đức và tôn
giáo của miền Bắc lây lan sang vương quốc miền Nam. Khi người Assyria
xâm chiếm Yuđa năm 701BC, tiên tri Isaia nhìn thấy họ như công cụ của
Thiên Chúa – “ngọn roi Ta dung trong cơn thịnh nộ với quốc gia vô đạo”
(x. Is 10,5-6).
Những điều xấu đã thực sự lan tràn trong
Yuđa và Israel. Maxây, Con trai vua Hezekiah, dựng bàn thờ tà thần trong
đền thờ, “thiêu con trai của mình bằng lửa”, và đổ “quá nhiều máu người
vô tội như để lấp đầy chiều dài và chiều rộng của Israel” (x. 2V
21,1-9,16 , 2V 16,03; 17,17).
Vì tội lỗi của Mana, Đức Chúa Trời tuyên bố sẽ “mang lại tai họa như vậy trên Yerusalem và Yuđa”.
Khoảng thời gian này, vị tiên tri
Xôphônia cảnh báo về “ngày của Chúa”, một sự trừng phạt sự gian ác và
bội giáo của Yuđa (x. Xp 1,4-6. 14).
Nhưng nó sẽ mất một thế hệ trước đó sẽ xảy ra.
Dưới sự trị vì của vua Yôsitốt, “cuốn
sách của giao ước” đã được tìm thấy trong đền thờ (x.V 22,08). Đọc những
câu chuyện chúng ta thấy những người sa ngã là do họ đã quên Luật Chúa
truyền cho cha ông họ.
Yosiah là nhiệt thành cho cải cách và
những người thề sống theo “các điều khoản của giao ước”. Ông quét sạch
đền thờ gái mại dâm đình đám và gớm ghiếc. Cuối cùng, ông ra lệnh cho cử
hành lễ Vượt Qua. Đó là lần đầu tiên lễ đã được tổ chức kể từ thời điểm
thanh luyện (x. 2V 23).
Trong tất cả điều này, Yosiah được tiên tri vĩ đại của Thiên Chúa, Yeremiah ủng hộ (x. Gr 1,1-6,30).
An Thanh, CSsR
Soạn theo tài liệu của St Paul Center, USA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét