Chủ Nhật I Mùa Chay, Năm B
Viết bởi LM. Anthony Đinh Minh
Tiên, OP
Bài đọc: Gen 9:8-15; I Pet
3:18-22; Mk 1:12-15.
1/ Bài đọc I: 8 Thiên
Chúa phán với ông Nô-ê và các con ông đang ở với ông rằng:9 "Đây Ta lập
giao ước của Ta với các ngươi, với dòng dõi các ngươi sau này,10 và tất cả
mọi sinh vật ở với các ngươi: chim chóc, gia súc, dã thú ở với các ngươi, nghĩa
là mọi vật ở trong tàu đi ra, kể cả dã thú.11 Ta lập giao ước của Ta với
các ngươi: mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thủy huỷ diệt, và cũng sẽ
không còn có hồng thủy để tàn phá mặt đất nữa."12 Thiên Chúa phán:
"Đây là dấu hiệu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật
ở với các ngươi, cho đến muôn thế hệ mai sau:13 Ta gác cây cung của Ta lên
mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với cõi đất.14 Khi Ta cho mây
kéo đến trên mặt đất và cây cung xuất hiện trong mây,15 Ta sẽ nhớ lại giao
ước giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm; và
nước sẽ không còn trở thành hồng thủy để tiêu diệt mọi xác phàm nữa.
2/ Bài đọc II: 18 Chính
Đức Ki-tô đã chịu chết một lần vì tội lỗi - Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất
lương - hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết,
nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh.19 Người đã đến rao giảng cho
các vong linh bị giam cầm,20 tức là những người xưa đã không vâng phục
Thiên Chúa, trong thời Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi, nghĩa là thời ông Nô-ê
đóng tàu. Trong con tàu ấy, một số ít, cả thảy là tám người, được cứu thoát nhờ
nước.21 Nước đó là hình bóng phép rửa nay cứu thoát anh em. Lãnh nhận phép
rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa
sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô,22 Đấng
đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể
thần minh phải phục quyền.
3/ Phúc Âm: 12 Thần
Khí liền đẩy Người vào hoang địa.13 Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày,
chịu Xa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.14 Sau
khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của
Thiên Chúa.15 Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã
đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng."
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa thực hiện mọi sự tốt đẹp qua Đức Kitô.
Nhìn lại lịch sử là điều cần thiết để hiểu biết và phê bình. Để so sánh cách
chính xác, con người thường so sánh những gì xảy ra trước và sau khi một người
nhận công việc hay chức vụ. Ví dụ, để phê bình tổng thống Obama, người ta sẽ dựa
vào tình hình chính trị và kinh tế trước và sau khi ông nhậm chức tổng thống.
Lịch sử Cứu Độ cần thiết để chúng ta nhận diện tội lỗi con người và tình thương
của Thiên Chúa. Cả ba Bài Đọc hôm nay đều cho chúng ta thấy một sự tương phản
trước và sau những biến cố lịch sử chính.
Trong Bài Đọc I, tác-giả Sách Sáng Thế cho chúng ta nhìn thấy những gì xảy ra
sau trận Lụt Hồng Thủy; điều này giả sử phải có lý do và những gì xảy ra trước
đó. Thiên Chúa đã nhìn thấy tội lỗi con người xúc phạm đến Ngài quá nhiều, nên
Ngài muốn tái tạo một trời mới đất mới, trong đó có gia đình Noah. Trong Bài Đọc
II, tác giả Thư Phêrô so sánh Lụt Hồng Thủy với cái chết của Đức Kitô. Nếu Lụt
Hồng Thủy tàn sát tất cả vì tội lỗi con người, cái chết của Đức Kitô xóa đi tất
cả tội lỗi và cứu sống con người. Điều này bảo đảm Lời hứa của Thiên Chúa: Lụt
Hồng Thủy sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Trong Phúc Âm, sau khi Chúa Giêsu được
Thánh Thần đưa vào sa mạc để chịu cám dỗ 40 đêm này, Ngài đã thắng vượt được tất
cả và bắt đầu hành trình rao giảng Tin Mừng để đem ơn Cứu Độ đến cho con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Gia đình Noah được
cứu thóat khỏi Lụt Hồng Thủy.
1.1/ Tội lỗi của con người: là một
thực trạng không thể chối cãi. Sách Sáng Thế từ chương 1-11 tường trình từ chi
tiết đến tổng quát các tội của con người:
- Tội Nguyên Tổ: Tổ tiên con người, Adam và Eve, đã bất tuân lệnh Thiên Chúa ăn
trái cấm. Con người phải lãnh nhận các hình phạt của việc bất tuân.
- Tội giết người: Cain giết Abel, em mình, vì tức giận Thiên Chúa không đóai
nhìn đến lễ vật ông dâng. Cain phải chấp nhận hình phạt của Thiên Chúa.
- Tội kiêu ngạo: Con người xây tháp Babel vì muốn để lại danh tiếng và không phải
tùy thuộc vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Hậu quả là ngôn ngữ bất đồng, Thiên
Chúa phân tán họ khắp mặt đất.
- Tất cả các tội khác: là nguyên nhân của Lụt Hồng Thủy. Chúa cứu gia đình ông
Noah.
1.2/ Tình thương Thiên Chúa cứu
vớt con người: Ngay cả trong khi ra hình phạt cho con người, tình thương của
Thiên Chúa vẫn thể hiện trong tất cả mọi trường hợp. Trong trận Lụt Hồng Thủy,
sau khi nhìn thấy kết quả của sự tàn phá, Chúa hứa với Noah và gia đình ông:
“Đây Ta lập giao ước của Ta với các ngươi, với dòng dõi các ngươi sau này, và tất
cả mọi sinh vật ở với các ngươi: chim chóc, gia súc, dã thú ở với các ngươi,
nghĩa là mọi vật ở trong tàu đi ra, kể cả dã thú. Ta lập giao ước của Ta với
các ngươi: mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thủy huỷ diệt, và cũng sẽ
không còn có hồng thủy để tàn phá mặt đất nữa." Dã thú ở với Noah trên tàu
mà không làm hại ông cũng như các súc vật khác trên tàu, nhưng vâng lời con người.
Khi con người sống công chính trước Thiên Chúa, tất cả các quyền lực và dã thú
phải tùng phục con người. Dã thú cũng được bao gồm trong giao ước Thiên Chúa
làm với con người.
Cầu Vồng là dấu hiệu của tình thương Thiên Chúa: Thiên Chúa phán: "Đây là
dấu hiệu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật ở với các
ngươi, cho đến muôn thế hệ mai sau: Ta gác cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là
dấu hiệu giao ước giữa Ta với cõi đất. Khi Ta cho mây kéo đến trên mặt đất và
cây cung xuất hiện trong mây, Ta sẽ nhớ lại giao ước giữa Ta với các ngươi, và
với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm; và nước sẽ không còn trở thành hồng
thủy để tiêu diệt mọi xác phàm nữa.”
2/ Bài đọc II: Lời hứa của Thiên
Chúa được hiện thực nơi Đức Kitô.
2.1/ Con người vẫn tiếp tục xúc
phạm đến Thiên Chúa: Từ thời Noah cho đến thời Đức Kitô, con người vẫn tiếp tục
phạm tội, nhưng Thiên Chúa giữ lời hứa không giết con người bằng Lụt Hồng Thủy
nữa. Nhưng làm sao để giải thóat con người khỏi tội? Đó chính là Kế họach Cứu Độ
của Thiên Chúa qua Đức Kitô. Ngài ban cho con người Đức Kitô để gánh tội cho
con người.
2.2/ Chúa Giêsu đã chịu phép rửa
trong nước và máu để chuộc tội cho con người: Các Thánh Giáo Phụ nhìn thấy sự
giống nhau giữa Lụt Hồng Thủy và biến cố Đức Kitô:
* Trong Lụt Hồng Thủy, ai không tin vào Noah và ở trong tàu sẽ bị nước cuốn đi;
cũng vậy, ai không tin vào Đức Kitô cũng phải chịu số phận tương tự. Tác giả
Thư Phêrô quả quyết: “Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi - Đấng
Công Chính đã chết cho kẻ bất lương - hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa.
Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh.”
* Lụt Hồng Thủy là hình bóng của Phép Rửa Tội: Cả hai đều rửa sạch tội lỗi con
người. “Nước đó là hình bóng phép rửa nay cứu thoát anh em.”
* Có phải chỉ cần chịu phép rửa là được cứu độ? Nhiều giáo phái tin như thế.
Nhưng tác giả Thư Phêrô cắt nghĩa: “Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy
sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng,
nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi
đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền.” Con
người vẫn phải trải qua thử thách và cám dỗ, và họ phải chứng minh sự trung
thành với Thiên Chúa.
* Đức Kitô không những có quyền năng giải thóat những người đương thời và tương
lai, mà còn cả những người đã hư mất trong và trước thời Noah: “Người đã đến
rao giảng cho các vong linh bị giam cầm, tức là những người xưa đã không vâng
phục Thiên Chúa, trong thời Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi, nghĩa là thời ông
Noah đóng tàu. Trong con tàu ấy, một số ít, cả thảy là tám người, được cứu
thoát nhờ nước.”
3/ Phúc Âm: Đức Kitô bắt đầu triều
đại của Thiên Chúa.
3.1/ Đức Kitô chịu cám dỗ trong
hoang địa: “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn
mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ
Người.” Sự kiện này xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu chịu phép Rửa tại sông
Jordan bởi Gioan.
“Hoang địa” không có nghĩa là sa mạc, chỉ có nghĩa là vùng không hay rất ít người
ở. Chỗ mà Marcô nói đến hôm nay là một vùng núi đá vây quanh bởi nhiều vực thẳm.
Hiện nay vẫn còn một tu viện của các đan sĩ nằm chênh vênh lưng chừng núi. Đây
là một sáng kiến rất đạc biệt. Nếu du khách đứng trên một ngọn đồi đối diện
nhìn qua Núi Cám Dỗ, họ sẽ há miệng kinh ngạc khi nhìn thấy tu viện; vì họ
không thể nào ngờ trong nơi hoang dã và hiểm trở như thế, con người có thể xây
một căn nhà như những chiếc hộp chồng lên nhau giữa lưng chừng núi. Chỉ cần sơ
sót chợt chân một tí là sẽ rơi xuống vực thẳm. Điều này tự nó nói lên nguy hiểm
của “chước cám dỗ:” chỉ cần sơ sót một tí, con người sẽ mất mạng ngay. Chúng
tôi có cơ hội leo lên chốn này để thăm tu viện, rồi từ đó leo lên tới đỉnh núi
khỏang 30 phút. Núi cám dỗ không xa kinh thành Jerusalem bao nhiêu, khỏang 30 dặm
lái xe. Trên đỉnh núi một người có thể nhìn thấy Jerusalem.
Trình thuật cám dỗ của Chúa Giêsu gợi lại “biến cố cám dỗ” trong Vườn Địa Đàng:
có Satan, các dã thú, và các thiên thần. Khi con người chưa rơi vào chước cám dỗ,
họ có thể ở chung với dã thú mà không sợ hãi. Khi con người sa chước cám dỗ,
các dã thú sợ hãi và có thể gây nguy hiểm cho con người. Điều này cũng đã được
tiên tri Isaiah nói tới khi triều đại Thiên Chúa đến, chó sói sẽ ở chung với
chiên… trẻ thơ có thể thò tay vào hang rắn lục mà không sợ nguy hiểm (Isa
11:6-9). Ngay cả trong khi bị cám dỗ, các thiên thần của Chúa vẫn hiện diện để
nâng đỡ và gìn giữ con người khỏi sa chước cám dỗ và “vấp chân vào đá.”
Marcô chỉ tường thuật tổng quát Chúa Giêsu chịu cám dỗ, nhưng không tường thuật
chi tiết các cám dỗ như Matthew và Luke (Mt 4:1-11, Lk 4:1-13). Điều Marcô muốn
nhấn mạnh là sự khác biệt giữa hai biến cố: Đức Kitô, Adam mới đã thắng vượt mọi
cám dỗ, chứ không sa chước cám dỗ như Adam cũ.
3.2/ Đức Kitô rao giảng Tin Mừng:
“Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilee rao giảng Tin Mừng của
Thiên Chúa. Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.
Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng."”
Thời kỳ đã mãn tức là thời gian con người phải chờ đợi đã hòan tất. Triều đại
Thiên Chúa bắt đầu với sự xuất hiện của Đức Kitô. Qua Ngài, tất cả những gì
Thiên Chúa hứa được thực hiện và hòan tất tốt đẹp. Chúa Giêsu rao truyền hai điều
quan trọng:
(1) Ăn năn xám hối: Giống như Gioan, Chúa Giêsu cũng đòi con người phải nhận ra
tội lỗi và ăn năn xám hối; vì không thể nhận được sự tha thứ nếu không thú nhận
tội lỗi của mình. Ơn thánh của Thiên Chúa đòi sự cộng tác của con người.
(2) Tin vào Tin Mừng: Điều này làm Chúa Giêsu khác Gioan. Marcô muốn nói gì
trong câu “tin vào Tin Mừng?”
- Tin Mừng là chính Đức Kitô: con người của Ngài, những lời Ngài dạy dỗ và các
việc Ngài làm.
- Tất cả những gì Thiên Chúa hứa được thực hiện nơi Đức Kitô trong Kế Họach Cứu
Độ.
- Tình thương Thiên Chúa mạnh hơn tội lỗi con người: Như một người Cha, không
có tội nào của con cái có thể lấy đi tình thương; ngọai trừ tội cố tình không
chịu ăn năn trở về.
- Đức Kitô gánh tội cho con người: để bảo đảm sự công bằng của Thiên Chúa.
- Đức Kitô giải thóat con người khỏi chết và mang lại ơn Cứu Độ cho con người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tình thương Thiên Chúa mạnh hơn tội lỗi con người. Ngài sẵn sàng tha thứ mọi
tội cho con người.
- Kế họach Cứu Độ được thực hiện qua Đức Kitô. Để được ơn Cứu Độ, con người phải
tin vào Đức Kitô và lãnh nhận BT Rửa Tội.
- Như Đức Kitô đã chịu cám dỗ và đã tòan thắng, Ngài có thể giúp chúng ta cũng
tòan thắng các chước cám dỗ của ma quỉ. Trường hợp sa chước cám dỗ, chúng ta đã
có Bí-tích Hòa Giải để tha thứ. Ma quỉ không thể làm gì chúng ta bao lâu chúng
ta luôn sẵn sàng xám hối và tin vào Tin Mừng.
- Mùa Chay là cơ hội thuận tiện để chúng ta đọc lại lịch sử và tin vào tình
thương của Thiên Chúa dành cho con người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét