Viết bởi LM. Anthony Đinh Minh
Tiên, OP
Ngày 17 tháng 12 MV
Bài đọc: Gen 49:2, 8-10; Mt
1:11-17.
1/ Bài đọc I: 2 Hỡi
các con của Gia-cóp, hãy tụ tập lại mà nghe,
hãy nghe Ít-ra-en, cha các con.
hãy nghe Ít-ra-en, cha các con.
8 Giu-đa, con sẽ được anh
em con ca tụng,
tay con sẽ đặt trên ót các địch thù,
anh em cùng cha với con sẽ sụp xuống lạy con.
tay con sẽ đặt trên ót các địch thù,
anh em cùng cha với con sẽ sụp xuống lạy con.
9 Giu-đa là sư tử con. Con ơi,
săn mồi xong con lại trở về.
Nó quỳ xuống, nằm phục như sư tử
và như sư tử cái: ai sẽ làm cho nó đứng dậy?
Nó quỳ xuống, nằm phục như sư tử
và như sư tử cái: ai sẽ làm cho nó đứng dậy?
10 Vương trượng sẽ không rời
khỏi Giu-đa,
gậy chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó,
cho tới khi người làm chủ vương trượng đến,
người mà muôn dân phải vâng phục.
gậy chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó,
cho tới khi người làm chủ vương trượng đến,
người mà muôn dân phải vâng phục.
2/ Phúc Âm: 11 Giô-si-gia
sinh Giơ-khon-gia và các anh em vua này; kế đó là thời lưu đày ở Ba-by-lon.
12 Sau thời lưu đày ở
Ba-by-lon, Giơ-khon-gia sinh San-ti-ên; San-ti-ên sinh Dơ-rúp-ba-ven;
13 Dơ-rúp-ba-ven sinh
A-vi-hút; A-vi-hút sinh En-gia-kim; En-gia-kim sinh A-do;
14 A-do sinh Xa-đốc; Xa-đốc
sinh A-khin; A-khin sinh Ê-li-hút;
15 Ê-li-hút sinh E-la-da;
E-la-da sinh Mát-than; Mát-than sinh Gia-cóp;
16 Gia-cóp sinh Giu-se, chồng
của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.
17 Như thế, tính chung lại
thì: từ tổ phụ Áp-ra-ham đến vua Đa-vít, là mười bốn đời; từ vua Đa-vít đến thời
lưu đày ở Ba-by-lon, là mười bốn đời; và từ thời lưu đày ở Ba-by-lon đến Đức
Ki-tô, cũng là mười bốn đời.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đấng Cứu Thế
được sinh ra trong lịch sử.
Niềm tin của con người vào Đấng
Cứu Thế không phải là một niềm tin trừu tượng; ví dụ, tin vào một vị thần không
có nguồn gốc; nhưng là một niềm tin vào Đấng có gia phả trong lịch sử con người.
Đấng Cứu Thế đã được Thiên Chúa hứa ngay từ thuở ban đầu, và được nhắc đi nhắc
lại cho con người nhớ theo giòng lịch sử. Kinh Thánh gọi đó là Kế Họach Cứu Độ.
Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa
đã có sẵn từ thuở ban đầu, và đã được mặc khải cho con người ngay từ khi Ông
Adong và Bà Evà sa ngã trong Vườn Địa Đàng, khi Thiên Chúa tuyên án con rắn:
“Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa giòng dõi mi và giòng dõi người
ấy; giòng dõi đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.” (Gen 3:15).
Trải qua giòng lịch sử của
Do-Thái, Thiên Chúa không ngừng chuẩn bị cho Kế Họach Cứu Độ này. Trong Bài Đọc
I từ Sách Sáng Thế Ký, Tổ-phụ Jacob đã chúc lành đạc biệt cho giòng dõi Judah;
vì Tổ-phụ đã nhìn thấy trước ngày giòng dõi này sẽ làm vua và cai trị các anh
em mình. Đồng thời, Tổ-phụ cũng tiên đóan Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra từ giòng dõi
Judah. Trong Phúc Âm, Thánh-sử Matthêu tường thuật gia phả của Đức Kitô, Con
Thiên Chúa. Bắt đầu từ thời các Tổ-phụ Abraham, Isaac, và Jacob cho đến thời
Vua David là 14 đời; từ thời Vua David cho đến Thời Lưu Đày Babylon là 14 đời;
sau Thời Lưu Đày cho đến thời Đấng Cứu Thế sinh ra cũng 14 đời. Trình thuật
Matthêu hôm nay chỉ tường thuật từ Thời Lưu Đày cho đến khi Đấng Cứu Thế sinh
ra.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tổ phụ Jacob chúc
lành cho giòng dõi Judah.
Chương 49 của Sách Sáng Thế Ký
là những lời chúc lành và trăn trối của Tổ-phụ Jacob (Israel) cho 12 con mình,
tượng trưng cho 12 chi tộc của Israel. Nhà Giuse được chia thành 2 chi tộc:
Benjamin và Manasseh. Tổ phụ Jacob kêu các con đến trước khi chúc lành: “Hỡi
các con của Jacob, hãy tụ tập lại mà nghe, hãy nghe Israel, cha các con.” Trình
thuật hôm nay chỉ chú ý đặc biệt đến chi tộc Judah; vì từ chi tộc này sẽ phát
sinh Đấng Cứu Thế.
1.1/ Giòng dõi Judah sẽ cai trị
các anh em: Judah là đứa con duy nhất được khen ngợi trước khi chúc lành. Tổ-phụ
Jacob chúc lành và nói tiên tri về chi tộc Judah: “Con sẽ được anh em con ca tụng,
tay con sẽ đặt trên ót các địch thù, anh em cùng cha với con sẽ sụp xuống lạy
con. Judah là sư tử con. Con ơi, săn mồi xong con lại trở về. Nó quỳ xuống, nằm
phục như sư tử và như sư tử cái: ai sẽ làm cho nó đứng dậy?”
1.2/ Giòng dõi Judah sẽ làm vua:
Thời của Tổ-phụ Jacob là thời của Bộ-tộc, Israel chưa có vua. Hàng ngũ lãnh đạo
gồm các thượng tế, bô lão, và thủ lãnh. Israel chỉ có vua sau thời Moses gần 200
năm, bắt đầu với Vua Saun, sau đó tới David, Solomon. Thế mà tổ phụ Jacob đã được
Thiên Chúa cho nhìn thấy trước ngày giòng dõi Judah sẽ làm vua: “Vương trượng sẽ
không rời khỏi Judah, gậy chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó, cho tới khi người
làm chủ vương trượng đến, người mà muôn dân phải vâng phục.”
1.3/ Từ giòng dõi Judah sẽ phát
sinh Đấng Cứu Thế: Không những nhìn thấy ngày giòng dõi Judah sẽ nối nhau làm
vua, tổ phụ Jacob còn được Thiên Chúa cho nhìn thấy Ngày Đấng Cứu Thế ra đời.
Ngài tuy xuất thân từ giòng dõi Judah, nhưng lại là chủ của vương trượng. Ngài
không chỉ cai trị dân Do-Thái, nhưng muôn dân phải vâng phục quyền bính của
Ngài.
2/ Phúc Âm: Đấng Cứu Thế sinh ra
từ giòng dõi Judah.
2.1/ Từ thời cực thịnh của vương
triều David đến thời Lưu Đày Babylon: “Josiah sinh Jechoniah và các anh em vua
này; kế đó là thời lưu đày ở Babylon.” Trong lịch sử Do-Thái, thời của Vua
David được coi là thời cực thịnh; vì Vua David thống nhất tòan lãnh thổ, tất cả
12 chi tộc Jacob, và lên làm vua. Tuy nhiên, điểm yếu của Vua David là biến cố
ngọai tình với Bà Bathsheba và sinh ra Vua Solomon. Vì biến cố này, mà vương quốc
bị chia đôi, và giòng họ Nhà Vua bị suy thóai dần dần cho đến thời Lưu Đày.
Trong thời Lưu Đày, nước Israel bị xóa sạch trên bản đồ, giòng họ Judah bị đày
sang Babylon, và dân Do-Thái hầu như không còn hy vọng gì nơi lời chúc lành của
Tổ-phụ Jacob. Họ kêu cầu Thiên Chúa:
“Đâu cả rồi, lạy Thiên Chúa,
nghĩa cũ với tình xưa Ngài hứa cùng David nhân danh chữ tín thành? Lạy Chúa,
xin nhớ rằng: các tôi tớ Ngài bị thoá mạ, những lời phỉ báng của chư dân, con
đây vẫn chất chứa trong lòng. Vâng, lạy Chúa, kẻ thù Ngài thoá mạ, theo sát gót
mà buông lời thoá mạ đấng Ngài đã xức dầu tấn phong” (Psa 89:50-52).
2.2/ Sau thời Lưu Đày Babylon:
Trong hòan cảnh hầu như tuyệt vọng tại nơi lưu đày, Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm
việc, và Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa vẫn trên đường tiến tới. Theo trình thuật
của Tin Mừng Matthêu: “Sau thời lưu đày ở Babylon, Jechoniah sinh Shealtiel;
Shealtiel sinh Zerubbabel; Zerubbabel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim
sinh Azor; Azor sinh Zadok; Zadok sinh Achim; Achim sinh Eliud; Eliud sinh
Eleazar; Eleazar sinh Matthan; Matthan sinh Jacob; Jacob sinh Giuse, chồng của
bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đức Kitô. Như thế, tính chung lại thì:
từ tổ phụ Abraham đến vua David, là mười bốn đời; từ vua David đến thời lưu đày
ở Babylon, là mười bốn đời; và từ thời lưu đày ở Babylon đến Đức Kitô, cũng là
mười bốn đời.
Nhìn lại gia phả của Chúa Giêsu,
Đấng Cứu Thế, chúng ta học được nhiều bài học: (1) Tổ tiên của Chúa Giêsu gồm cả
người thánh thiện (các Tổ-phụ Abraham, Isaac, và Jacob) và kẻ tội lỗi (Bà Tamar
giả làm gái điếm để được có con với Judah, Vua David ngọai tình với Bà
Bathsheba); cả những người thờ phượng Thiên Chúa và người thờ nhiều thần (Bà
Ruth); cả những người Do-Thái và Dân Ngọai. (2) Tuy có những lúc cực thịnh (triều
đại của David và Solomon) và những lúc cực suy (thời Lưu Đày), lời hứa của
Thiên Chúa và lời chúc lành của Tổ-phụ Jacob vẫn tiếp tục ứng nghiệm. Ngài vẽ đường
thẳng của Kế Họach Cứu Độ trên những đường cong của lịch sử Do-Thái. Thiên Chúa
là Đấng Trung Thành: những gì Ngài đã hứa, Ngài sẽ thực hiện.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Niềm tin của chúng ta vào Chúa
Giêsu, Đấng Cứu Thế, không phải là niềm tin trừu tượng và mơ hồ, nhưng được bám
rễ sâu trong lịch sử con người qua gia phả của Chúa Giêsu.
- Đấng Cứu Thế đã được Thiên
Chúa hứa ban cho con người ngay từ khởi thủy, và Ngài đã không ngừng chuẩn bị
và mặc khải cho con người qua các thời đại. Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa vẫn
đang tiếp tục họat động trong thời đại chúng ta cho đến Ngày Phán Xét.
- Chúng ta hãy đặt hòan tòan niềm
tin nơi Thiên Chúa trong mọi khúc quanh của cuộc đời. Cho dù trời đất có thay đổi,
nhưng những gì Thiên Chúa đã hứa không bao giờ đổi thay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét