CHÂN THIỆN MỸ MẾN CHÀO CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM

Thứ Tư, 17 tháng 4, 2013

"Vậy ý của Cha, Đấng đã sai Ta, là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để mất, nhưng ngày sau hết, Ta sẽ cho nó sống lại." (Ga 6,39)

Thứ Tư Tuần III Mùa Phục Sinh - Năm C
Lời Chúa: 
Ga 6, 35-40
35 Khi ấy, Chúa Giêsu phán với đám đông rằng: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ. 36 Nhưng Ta đã bảo các ngươi rằng: Các ngươi đã thấy Ta, nhưng các ngươi không chịu tin. 37 Những ai Cha đã ban cho Ta sẽ đến với Ta. Và ai đến với Ta, Ta sẽ không xua đuổi ra ngoài. 38 Bởi vì Ta từ trời xuống không phải để làm theo ý Ta, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Ta. 39 Vậy ý của Cha, Đấng đã sai Ta, là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để mất, nhưng ngày sau hết, Ta sẽ cho nó sống lại. 40 Quả vậy, ý của Cha Ta là hễ ai thấy Con và tin vào Người thì có sự sống đời đời".
"Vậy ý của Cha, Đấng đã sai Ta, là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để mất, nhưng ngày sau hết, Ta sẽ cho nó sống lại." (Ga 6,39)
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
Nhắc lại bài Phúc Âm hôm qua: nghe Chúa Giêsu nói tới một thứ lương thực quý trọng hơn cả Manna ngày xưa nữa, dân Do Thái tưởng đó là thứ thức ăn đặc biệt no lâu nên xin Chúa ban cho họ thứ thức ăn đó mãi.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với họ rằng “Chính Ta là bánh ban sự sống”.
Chúa Giêsu trở thành bánh sự sống cho loài người thế nào?
Khi người ta đến với Ngài: “Ai đến với Ta, sẽ không hề đói”.
Khi người ta tin vào Ngài: “Ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”.
Thực ra theo luật của cú pháp sóng đôi, “Đến với” và “Tin vào” không phải là hai việc khác nhau mà chỉ là hai cách diễn tả cùng một sự việc: Tin vào Chúa Giêsu, thể hiện ở thái độ đến với Ngài. Kết quả của công việc đó là không hề đói không hề khát.
B. Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Đức tin vào Chúa Giêsu phải thể hiện vào việc đến với Ngài. Một ngày tôi dành bao nhiêu thời gian để “đến với” Chúa.
2. Chúng ta “đến với” Chúa bằng nhiều cách: tưởng nhớ, cầu nguyện, suy gẫm, và nhất là tham dự Thánh Lễ. Hãy xét mình xem khi chúng ta làm những việc trên, lòng chúng ta có thực sự “đến với” Chúa không?
3. Khi tâm hồn tôi cảm thấy đói khát, tôi đã “đến với” ai, với cái gì? Có “đến với” Chúa không?
4. Buổi sáng bà lão ra ngoài. Buổi chiều bà trở về, bà không tìm thấy chìa khóa.
Không biết làm thế nào?! Bà chạy sang hàng xóm, mượn chìa khóa của họ mở thử, chẳng có cái nào hợp.
Cuối cùng một người góp ý: cứ mở then cài ra xem sao! Bà mở then và cánh cửa mở toang. Thì ra khi đi ra bà không khóa cửa.
Câu chuyện trên mô tả phần nào thái độ của chúng ta trước Chúa. Ta đứng ngoài, lòng đầy băn khoăn lo sợ. Ta nghĩ phải làm việc này việc nọ mới đáng đến với Chúa. Trong khi đó, cánh cửa nhà Chúa luôn mở rộng và ưu ái đón ta vào (Góp nhặt).
5. “Vậy ý của Cha, Đấng đã sai Ta, là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để mất”.
…Chúa Giêsu và Hội Thánh bấy giờ xuất hiện với tôi như một cái gì khô cứng, sự khô cứng của những khái niệm thần học, những bổn phận “phải” làm hơn là một tình yêu thiết tha tung cánh… Rồi chẳng biết từ đâu, Triết lý phương Đông và Phật Giáo len lỏi vào tâm hồn tôi, phất phơ nhẹ nhàng nhưng sao có sức giật tung những gì tôi mòn mỏi. Tôi nằng nặc đòi nhà Dòng một năm phép, cho ra độc cư trên núi, sống với nắng, gió, mưa, đói, khát, và sự sợ hãi nữa. Nhưng mỗi lần tôi nhất tâm thất niệm thì vấn đề về Chúa Giêsu lại vang lên, đeo bám tôi mãi… Một năm phép đã hết, thân tàn ma dại, tôi thua cuộc, trở về nhà Dòng một cách trắng tay. Nhưng Chúa Giêsu vẫn cứ đeo bám tôi mãi. Đang trong một năm nổi loạn, thất bại và hư hỏng cùng cực đó, tôi được gọi làm linh mục. Hoang mang và sợ hãi, tâm hồn rối bời, tan nát, tôi vào ngồi thẫn thờ trong nhà nguyện như sự đay nghiến, một sự nức nở và đền tội…
Một đêm trước khi làm Linh mục vài hôm, tôi thử tiến lên đứng sát Nhà Tạm Thánh Thể. Có cái gì đó khác hơn là cảm giác, hơn cả sự rung động, mà là sự bao phủ lấy toàn bộ cuộc đời và con người tôi. Ngay giây phút đó, tôi “hiểu” rằng cho dù có là hòn đá hòn sỏi, dù tôi đã lấm bùn bê bết, dù tôi đã thân tàn ma dại, dù tôi đã hỏng hết cả cuộc đời, thì Chúa Giêsu vẫn gọi và chọn tôi, làm tâm hồn tôi bừng sáng huy hoàng. Và tôi gọi Ngài là Chúa, Cứu Chúa của đời tôi…
Lạy Chúa, chứng từ này giúp con nghiệm ra rằng, dù phận hèn yếu đuối đến đâu, con vẫn được Ngài yêu thương vì Ngài là Đấng khoan dung bền vững muôn đời. (Epphata).
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa là bánh bởi trời được ban xuống trần gian để lôi kéo con người về với Chúa Cha. Xin nhờ Mình và Máu Thánh Chúa Phục sinh đã chiến thắng sự chết đang hiện diện trong tâm hồn chúng con cũng biến đổi chúng con thành bất tử như Chúa. Xin giúp chúng con đón rước Chúa trong niềm tri ân cảm tạ, và biết sống kết hợp trọn vẹn với Chúa như cành liền cây, để mai sau chúng con cũng được sống lại vinh hiển với Chúa.
Lạy Chúa, ở đời ai cũng muốn cho mình được lưu danh hậu thế. Vì “không công danh thời nát với cỏ cây”. Ai cũng muốn được trường sinh bất tử. Chúng con thật hạnh phúc vì có thuốc trường sinh bất tử là chính Mình Thánh Chúa. Vì Chúa đã hứa “ai ăn bánh này thì sẽ không bao giờ phải chết, và Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết”. Xin cho chúng con luôn dành thời giờ đến với Chúa qua việc siêng năng tham dự thánh lễ mỗi ngày. Xin giúp chúng con biết sống bất tử theo bước chân mà Chúa đã đi qua. Bước chân của yêu thương. Bước chân của bác ái vị tha. Bước chân của dâng hiến mạng sống cho anh em được sống và sống dồi dào. Vì mỗi nghĩa cử yêu thương là chúng con đang làm cho mình trở nên bất tử trước mặt mọi người và trước mặt Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn giầu lòng quảng đại như Chúa đã từng quảng đại với chúng con. Xin cho thế giới chúng con có nhiều người biết cho đi để tấm bánh sự sống trường sinh được đến với mọi người. Xin cho chúng con cũng trở nên dấu chỉ cho tình yêu của Chúa giữa thế giới khô cạn tình người hôm nay. Amen.
(Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

Mời bạn đọc thêm:

Thứ Tư Tuần III PS2

Xin Nhấn vào đây để nghe Bài Giảng hoặc tải xuống

Thứ Tư Tuần III PS
 
Bài đọc: Acts 8:1-8; Jn 6:35-40.

1/ Bài đọc I: 1 Phần ông Sao-lô, ông tán thành việc giết ông Tê-pha-nô.
Hồi ấy, Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem trải qua một cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các Tông Đồ ra, mọi người đều phải tản mác về các vùng quê miền Giu-đê và Sa-ma-ri.

2 Có mấy người sùng đạo chôn cất ông Tê-pha-nô và khóc thương ông thảm thiết.
3 Còn ông Sao-lô thì cứ phá hoại Hội Thánh: ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục.
4 Vậy những người phải tản mác này đi khắp nơi loan báo lời Chúa.
5 Ông Phi-líp-phê xuống một thành miền Sa-ma-ri và rao giảng Đức Ki-tô cho dân cư ở đó.
6 Đám đông một lòng chú ý đến những điều ông Phi-líp-phê giảng, bởi được nghe đồn và được chứng kiến những dấu lạ ông làm.
7 Thật vậy, các thần ô uế vừa kêu lớn tiếng vừa xuất khỏi nhiều người trong số những kẻ bị chúng ám. Nhiều người tê bại và tàn tật được chữa lành.
8 Trong thành, người ta rất vui mừng.

2/ Phúc Âm: 35 Đức Giê-su bảo họ: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!
36 Nhưng tôi đã bảo các ông: các ông đã thấy tôi mà không tin.
37 Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài,
38 vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi.
39 Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.
40 Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết."



GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa

Trong Kế Hoạch Cứu Độ, Thiên Chúa muốn cho tất cả mọi người tin vào Đức Kitô để được hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Để mọi người có thể tin vào Đức Kitô, cần có những người nhiệt thành rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Thiên Chúa, như lời thánh Justin nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sẽ trổ sinh niềm tin Công-giáo.” Để có người làm chứng, cần có người bách hại. Vì thế, mặc dù Giáo Hội sơ khai còn non nớt, làn sóng bách hại đạo đã bắt đầu. Thiên Chúa để việc bách hại xảy ra để có người làm chứng; và nhờ việc làm chứng, nhiều người sẽ nhận ra và tin vào Chúa Giêsu. Thiên Chúa là người điều khiển và cung cấp sức mạnh cho các tín hữu để họ giúp bành trướng Giáo Hội khắp nơi.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, vì Hội Thánh tại Jerusalem bị bắt bớ dữ dội sau cái chết tử đạo của Phó-tế Stephanô, các môn đệ và các tín hữu phải tản mác về các vùng miền quê của Judah và Samaria để hoạt động. Phó-tế Philip xuống vùng Samaria và thành công trong việc rao giảng Tin Mừng tại đó. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải long trọng và rõ ràng thánh ý của Thiên Chúa cho con người: Ngài muốn mọi người tin vào Đức Kitô để khỏi phải chết và được sống muôn đời.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Giáo Hội từ Jerusalem lan rộng tới Samaria.

1.1/ Giáo Hội tại Jerusalem bị bắt bớ dữ dội: “Hồi ấy, Hội Thánh tại Jerusalem trải qua một cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các Tông Đồ ra, mọi người đều phải tản mác về các vùng quê miền Judah và Samaria.”
(1) Các Tông-đồ là những người ở lại để trấn thủ: Có hai lý do tại sao các Tông-đồ ở lại Jerusalem: Thứ nhất, các ông là những người can đảm, các ông ở lại để truyền bá Tin Mừng và củng cố Giáo Hội tại Jerusalem, nơi phát sinh Kitô-giáo và giữ một vị trí quan trọng của thế giới. Thứ hai, các ông ở lại để làm gương sáng cho các tín hữu. Là những người lãnh đạo, các ông không thể bỏ đàn chiên Chúa trao để trốn chạy.
(2) Saolô, tên thánh Phaolô trước khi trở lại: Ông là một trong những người nhiệt thành bắt bớ Giáo Hội sơ khai; chẳng những ông tán thành việc giết ông Stephanô, mà ông còn đi đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục.

1.2/ Giáo hội từ Jerusalem bắt đầu lan tràn ra khắp nơi: Vì vậy, các tín hữu phải tản mác đi khắp nơi loan báo lời Chúa. Phó-tế Philip đi rao giảng Tin Mừng tại Samaria. Sách CVTĐ tường thuật kết quả cuộc rao giảng Tin Mừng của ông như sau: “Đám đông một lòng chú ý đến những điều ông Philíp giảng, bởi được nghe đồn và được chứng kiến những dấu lạ ông làm. Thật vậy, các thần ô uế vừa kêu lớn tiếng vừa xuất khỏi nhiều người trong số những kẻ bị chúng ám. Nhiều người tê bại và tàn tật được chữa lành. Trong thành, người ta rất vui mừng.”
Mấy điều cần lưu ý: ông không phải là một trong số 12 Tông-đồ, ông là một trong 7 Phó-tế với Stephanô. Philip cũng được ban sự khôn ngoan và uy quyền làm phép lạ. Điều này chứng minh sự khôn ngoan và uy quyền làm phép lạ không phải chỉ ban cho các Tông-đồ mả thôi.
Chúa Giêsu rất ít khi rao giảng cho các vùng Samaria và Dân Ngoại, lý do như Chúa nói: “Thầy chỉ được sai đến với các chiên lạc nhà Israel.” Tuy những người Samaria bị ghét bỏ và không được giao thiệp với người Do-thái, nhưng họ lại được cảm tình đặc biệt của Chúa Giêsu. Điều này được chứng minh qua các trình thuật của Tin Mừng:
(1) Câu truyện đàm thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ xứ Samaria kết thúc bằng việc Bà loan báo cho mọi dân trong làng ra gặp Chúa (Jn 4).
(2) Trong Tin Mừng Luca, người Samaritan nhân hậu là người được Chúa Giêsu khen, vì ông đã hết lòng giúp đỡ người gặp nạn trên đường từ Jerusalem xuống Jericho (Lk 10:30-36).
(3) Một người cùi trong số 10 người được khỏi bệnh trở lại cám ơn Chúa, cũng là người Samaria (Lk 17:11).
Dân nghèo chất phác quê mùa là những người hăng hái đón nhận Tin Mừng; trong khi những người đã biết Chúa và biết Kinh Thánh lâu năm không những làm ngơ, lại còn đấu tố những người rao giảng Tin Mừng.

2/ Phúc Âm: Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời.

2.1/ Chúa Giêsu là Bánh Trường Sinh: Đức Giêsu bảo họ: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! Nhưng tôi đã bảo các ông: các ông đã thấy tôi mà không tin.”
Khi Chúa Giêsu nhập thể và loan báo Tin Mừng cho người Do-thái, họ bị đặt trong tình trạng buộc phải lựa chọn một trong hai điều: tin hay không tin vào Ngài. Nếu họ chọn để tin vào Ngài, họ sẽ đạt được cuộc sống muôn đời. Nếu họ chọn không tin vào Ngài, họ sẽ không đạt được cuộc sống muôn đời.
Bằng sự tự do lựa chọn tin hay không tin nơi Chúa Giêsu, con người tự phán xét lấy mình; vì Thiên Chúa không sai Người Con của Ngài đến luận phạt thế gian, nhưng là để cứu thế gian (Jn 3:16-21). Chúa Giêsu mở rộng vòng tay để đón mọi người: “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi.” Không có sự tiền định cho ai phải lên thiên đàng hay phải xuống hỏa ngục trong Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa.

2.2/ Chúa Giêsu mặc khải thánh ý của Thiên Chúa cho mọi người: “Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết."
Theo Kế Họach của Thiên Chúa, Ngài muốn cho mọi người được cứu độ, và Máu Thánh của Chúa Giêsu đổ ra là cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, nói như thánh Augustinô, để cứu độ con người, Chúa cần sự cộng tác của cá nhân đó bằng cách đòi họ phải tin vào Đức Kitô.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúa Giêsu đã được Chúa Cha sai đến để thi hành Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Ngài đã chết và sống lại để hoàn thành Kế Hoạch của Thiên Chúa. Vì thế, mọi người đều có thể được cứu độ nếu họ tin vào Chúa Giêsu.
- Để mọi người tin vào Chúa Giêsu, cần có những người đi rao giảng Tin Mừng và dám làm chứng cho Ngài.
- Tất cả chúng ta có đức tin vì đã được nghe những nhà truyền giáo rao giảng Tin Mừng và hưởng ơn phúc của những chứng nhân đã đổ máu làm chứng cho Chúa. Chúng ta có bổn phận phải tiếp tục loan truyền Tin Mừng và trở thành những chứng nhân, để mọi người nhận biết và tin vào Đức Kitô.

Không có nhận xét nào: