Jos.Vinc. Ngọc Biển
Nguồn: http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=detail&ia=11002
Nếu
một cánh cửa cần có bản lề để vừa đỡ cửa, vừa có chức năng đóng - mở.
Thì đời sống nhân bản của người tu sĩ thừa sai cũng cần phải có một cái
giá đỡ; cần phải có một nguyên tắc nhất định để hình thành và làm nên
nhân cách người tu sĩ thừa sai, nguyên tắc đó, ta gọi là Nhân Bản Kitô
Giáo. Vì vậy, việc huấn luyện nhân bản là điều cốt thiết có tính khẩn
thiết trong các cộng đoàn tu trì. Nhất là các cộng đoàn có sứ mạng
truyền giáo cách chuyên biệt. Nói cách khác, đời sống nhân bản như là
một điều kiện cần cho sứ vụ thừa sai của người tu sĩ[1].
1. Huấn luyện nhân bản Kitô Giáo
Người
thừa sai là người được Giáo Hội sai đi để mang Chúa đến cho người khác.
Nhưng trước khi mang Chúa đến cho người khác, nhà thừa sai phải là
người mang trong mình hình ảnh của một vị Thiên Chúa nhân hậu, từ bi,
bao dung, độ lượng. Một vị Thiên Chúa thật dễ thương, dễ mến,...Như thế,
ta mới có thể giới thiệu về Chúa cho người khác. Người ta sẽ không thể
chấp nhận một vị Thiên Chúa nhân hậu, khiêm nhường, yêu thương...đang
được nhà thừa sai giới thiệu, khi thấy con người và tâm tính của chính
nhà thừa sai lại thật cọc cằn, nóng nảy và thiếu lịch sự, tế nhị...người
ta cũng không chấp nhận một vị Thiên Chúa luôn đi tìm và đem lại hạnh
phúc cho con người khi hình ảnh của nhà thừa sai lại đi ngược lại hoàn
toàn, luôn gây chia rẽ ngay trong chính cộng đoàn, luôn gây gương xấu
cho mọi người, luôn tìm đến với người giàu mà bỏ quên sứ mạng của mình
là phải đến với người nghèo.Trong tông huấn Pastores Dabo Vobis, Đức cố Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II có nói tới vấn đề đào tạo nhân bản cho người môn đệ của
Đức Giêsu. Nếu không được đào tạo nhân bản cách kỹ lưỡng, người tu sĩ
sẽ bị thiếu hụt trầm trọng nền tảng cần thiết để thi hành sứ vụ:“Không có đào tạo nhân bản thỏa đáng, thì việc đào tạo linh mục trong toàn bộ sẽ bị thiếu hụt mất nền tảng cần thiết”[2].
Đứng trước thực trạng ngày nay, xã hội nhanh
chóng phát triển, con người dễ dàng vươn xa và tiếp cận được với đủ mọi
hạng người. Điều này có tầm ảnh hưởng rất quan trọng đến đời sống đức
tin của người Kitô hữu nói chung và đời sống người tu sĩ nói riêng. Vì
vậy, việc đào tạo nhân bản cho người tu sĩ trẻ ngày nay quả là điều cần
thiết. Các dòng tu, Tu đoàn, Tu hội phải liệu sao cho người tu sĩ mà
mình gửi đến các điểm, các nơi truyền giáo không bị hụt hẫng về mặt nhân
bản. Có thế, người tu sĩ mới sẵn sàng và hiên ngang bước vào mặt trận
mới, nơi đó đang cần nhà thừa sai mang niềm hy vọng đến cho họ.
Việc
đào tạo này có tính thường xuyên và liên tục. Đồng thời, việc đào tạo
này phải được coi là cấp bách mọi thời và mọi nơi. Mặt khác, đào tạo
nhân bản là một trong yếu tố nền tảng để hình thành nhân cách của nhà
thừa sai.
Như vậy, huấn luyện nhân bản là một chiều kích không thể thiếu trong tiến trình đào tạo người tu sĩ.
2. Tại sao người tu sĩ cần trưởng thành nhân bản?
Dưới cái nhìn của người dân, các tu sĩ phải là người trưởng thành nhân bản và trưởng thành Kitô giáo. Người tu sĩ có mối tương giao thường xuyên với người khác,
vì thế họ cần phải học cách cư xử và giao tế cho đúng phép. Hơn nữa,
dưới cái nhìn chính danh, người tu sĩ là người được kêu gọi để trở nên “hình ảnh sống động”
của Đức Giêsu, Đấng đã đến trần gian trong thân phận con người, hoàn
hảo về phương diện nhân bản, đặc biệt qua thái độ của Người đối với tha
nhân[3]. Vì thế, người tu sĩ cần được rèn luyện để ngày càng trở nên giống Thầy của mình hơn, hầu khả năng nhận thức được chiều sâu trong tâm trí con người, nhạy bén trước những khó khăn và những vấn đề của con người, dễ dàng gặp gỡ và đối thoại, gây được niềm tin và sự cộng tác, đưa ra những phán đoán ngay thẳng và khách quan.
Trong huấn từ ban cho Dòng Cátminh, nhân kỷ niệm 25 năm thành lập học viện quốc tế của Dòng tại Rôma, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã khẳng định sự quan trọng của việc trưởng thành nhân bản, ngài nói:
Trong
khi chờ đợi người tu sĩ trẻ trở nên thành viên có nhân đức sáng ngời,
thì họ phải luyện tập trở thành con người hoàn hảo trong những công tác
thường nhật: vì làm sao con người có thể trèo lên đỉnh núi nếu dưới đồng
bằng họ đi chưa vững bước! Vậy ước mong rằng người tu sĩ rèn luyện và
biểu dương qua cuộc sống, một nghị lực thích ứng với tha nhân và tương
quan xã hội, một thái độ cởi mở, một bộ diện nhu mì, một tâm hồn trung
thực, và cũng ước mong rằng người tu sĩ ấy luôn luôn giữ lời hứa, làm
chủ ngôn hành của mình, biết kính trọng mọi người, giữ đức công bình,
giữ đức nhẫn nhục...[4]
Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh đào tạo linh mục cũng khẳng định:
Các
chủng sinh phải tập cho quen biết điều thích hợp với cá tính mình, họ
phải được huấn luyện cho có tinh thần quả cảm, và nói chung phải biết
quý chuộng những đức tính mà người đời thường quý chuộng và Sẽ thất bại
khi gán ép sự thánh thiện Kitô giáo cho một người chưa đạt tới sự
trưởng thành nhân bản[5].
Những điều nói về chủng sinh, cũng phải hiểu về các tu sĩ nữa, nhất là các tu sĩ lãnh nhận sứ mạng truyền giáo.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis, đã khẳng định: “sự
cần thiết phải có một nền giáo dục về lòng yêu mến chân lý, sự chân
thành, thái độ tôn trọng mọi người, ý thức về công bình, trung tín với
lời mình nói, sự cảm thông đích thực, tính nhất quán và nhất là quân
bình trong phán đoán và thái độ cư xử”[6].
Khi
nói đến giáo dục nhân bản, chúng ta thường nghĩ đến việc vị giáo sư
truyền thụ kiến thức, kinh nghiệm cho sinh viên. Điều này chỉ đúng một
phần, mà có lẽ là phần nhỏ. Trong lĩnh vực đào tạo nhân bản, chính mỗi
người phải tự đào luyện mình, với sự giúp đỡ của anh chị em hiện diện
xung quanh.
Như
vậy, sự trưởng thành nhân bản là rất cần thiết đối với người tu sĩ. Đó
là nền tảng để xây dựng sự trưởng thành Kitô giáo và trưởng thành đời
tu. Vậy, để trưởng thành nhân bản, người tu sĩ cần được huấn luyện thế
nào? “Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền,... thì xin anh em hãy để ý” (Pl 4,8).
3. Trưởng thành trong đời sống thánh hiến của người tu sĩ thừa sai
Người
tu sĩ thừa sai phải là người trưởng thành về đời sống thánh hiến. Bởi
vì, bản tính của sự trưởng thành đó là sống đời tu một cách sáng suốt
đầy đủ và với một thiện chí hoàn toàn.
Người
thánh hiến hôm nay được mời gọi đạt tới sự trưởng thành cần thiết, để
có sự quân bình chín chắn trong cách suy nghĩ, cách chọn lựa và quyết
định, cách phán đoán và hành động, sao cho toát lên vẻ đẹp chứng tá tươi
vui và thuyết phục của đời sống thánh hiến. Một trong những biểu hiện
làm toát lên sự trưởng thành của người tu sĩ là làm chứng cho sự thật.
Tấm gương của lương tâm sau những bụi mờ của “bệnh gian dối”, “bệnh thành tích”, sau những năm tháng luồn lách để có thể sống cái thời “lương tâm không bằng lương tháng”. Những
chuẩn mực đạo đức, bậc thang giá trị, đạo làm người, đạo làm con Chúa
xem ra mờ nhạt và chìm lắng dần trước cái chói chang ồn ào của thời kinh
tế thị trường. Trong bối cảnh đó, người thánh hiến được mời gọi để đưa
ra cái gì là “thật”, là “đích thực”,là “tinh ròng”, “nguyên tuyền”, “chính cống”,
qua những nhân đức tự nhiên như thành thật, công bằng, tôn trọng của
chung và của cải người khác, kính trọng nhân phẩm, danh dự, giữ lời hứa,
nhân từ, tin tưởng …[7].
Nói theo ngôn ngữ của tác giả Nguyễn Thái Hợp là phải chống lại năm đứa con hư: “con người tiểu kỉ”[8] ngày xưa cùng với hai đứa con hư của thời bao cấp là “thói đạo đức giả” và “vô trách nhiệm”, hai đứa con hư của cơ chế thị trường hoang dã là “nóng ruột kiếm tiền” và “cắm đầu hưởng thụ”;
đồng thời, phát triển nhũng đứa con ngoan rút tỉa và hấp thụ tinh hoa
từ đạo đức truyền thống và tiếp thu, gạn lọc những giá trị của văn minh
tiến bộ[9]. Hay nói cách khác theo tác giả Nguyễn Ngọc Sơn là “xây
dựng con người mới, ý thức và tự nguyện sống theo lương tâm ngay chính,
vượt qua những quyến rũ của vật chất, đam mê để sống đạo đức […], có
thể vượt qua những tệ nạn như: dối trá, tham nhũng, quan liêu, lãng phí,
phá thai… đang tràn lan trong xã hội hiện thời”[10].
Trong
đời sống thánh hiến, cần phải có một sự trưởng thành và phát triển toàn
diện như: thể lý, tâm lý, tình cảm, trí thức và tình yêu nữa: tình yêu
con cái, tình yêu huynh đệ, tình bạn, tình yêu đam mê xác thịt, tình yêu
cha mẹ[11].
Sự
trưởng thành trong đời tu là sự trưởng thành nhân vị toàn diện, được
thể hiện qua các tiêu chuẩn: khả năng yêu thương và đón nhận yêu thương,
khả năng can đảm đối diện và đối thoại, khả năng làm việc và cộng tác
có trách nhiệm, khả năng tự lập, khả năng lấy Thiên Chúa làm trung tâm.
4. Người thừa sai là người trưởng thành tình cảm[12]
Tình
cảm là một năng lực mãnh liệt có thể giúp chúng ta hăng say làm việc có
ích hoặc có thể đẩy chúng ta vào con đường tha hóa. Chúng ta không thể
hủy diệt tình cảm của mình. Vì vậy, cần phải rèn luyện tình cảm để khơi
dậy sức mạnh nhân bản lớn lao, tức là điều khiển và hướng dẫn tình cảm
vươn lên những đối tượng tốt đẹp hơn. Để chế ngự tình cảm và hướng nó
đến những đối tượng cao đẹp, thì chúng ta cần tạo cho mình một ý chí
mạnh mẽ. Để thành nhân, chúng ta phải biết tiết chế đam mê và hướng dẫn
các khuynh hướng bản năng.
Rèn luyện khả năng yêu thương: trong thông điệp Redemptoris Missio, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khẳng định: “Con người không thể sống mà không có tình yêu”.
Vì thế, người trưởng thành nhân bản phải là người biết yêu bản thân
mình, có trách nhiệm làm cho mình phát triển trọn vẹn cả về thể lý, tâm
lý, thiêng liêng. Đó không phải là tình yêu vị kỷ, nhưng chính khi biết
yêu bản thân mình, chúng ta biết trao hiến cho người khác, yêu thương và
đón nhận họ như mình vậy.
Vì thế, người trưởng thành nhân bản là người biết khám phá và nhận biết chính bản thân mình với những nét độc đáo, riêng biệt. Biết
chấp nhận thực tế về bản thân, có cái nhìn đúng đắn về mình, không
huênh hoang tự đắc, cũng chẳng giả bộ giả hình. Ngoài ra, người tu sĩ
trưởng thành còn phải biết chấp nhận hoàn cảnh, môi trường cuộc sống của
cộng đoàn, hội dòng, và anh chị em. Nhờ biết chấp nhận thực tế, họ có
thể sống bình an, hạnh phúc. Bên cạnh đó, người tu sĩ thừa sai trưởng
thành nhân bản là người sống yêu thương chan hòa với mọi người, có khả
năng mở rộng tâm hồn cho mọi người và đón nhận họ một cách thanh thản,
không thiên kiến với ai. Trong giao tiếp, họ biết diễn tả hồn nhiên và
đúng mức cảm xúc. Họ cũng phải là người có tinh thần trách nhiệm về công việc mình đảm nhận, về cuộc sống cũng như lựa chọn của mình. Ngoài ra, người tu sĩ thừa sai cần
rèn luyện để có thể luôn giữ được mức quân bình cần thiết: giữa tâm lý
và thể lý, giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa lao động và nghỉ ngơi…Chính
điều đó, giúp cho họ giảm bớt căng thẳng trong cuộc sống, để sống đời tu
hạnh phúc hơn.
Khi
dấn thân vào công cuộc loan báo Tin Mừng bằng đời sống độc thân, sự
trưởng thành về mặt tình cảm là yếu tố cần thiết để hội nhập vào trong
các mối quan hệ nhân sinh như tình bạn, tình huynh đệ và các tương quan
cần thiết trong việc tông đồ. Nhờ trưởng thành về mặt tình cảm mà trong
các phán quyết, cách cư xử, nhà thừa sai luôn hành động theo tiêu chuẩn
của lý trí dưới sự soi sáng của đức tin. Có như vậy họ mới tránh được
những phản ứng theo tình cảm uỷ mị và dễ có khuynh hướng theo tình cảm
cá nhân, mất đi sự sáng suốt và khôn ngoan.
Kết:
Như
vậy, chúng ta đã cùng nhau lược qua để hiểu được đâu là việc huấn luyện
nhân bản, và nguyên nhân tiên quyết trong vấn đề huấn luyện nhân bản
đối với tu sĩ thừa sai. Đồng thời chúng ta cũng thấy tính cấp bách của
việc đào tạo nhân bản cho tu sĩ trong thời đài ngày nay, nhất là đào tạo
để vươn tới sự trưởng thành tình cảm trong khi thi hành sứ mạng của
mình...
Mong
thay mỗi khi nhà thừa sai loan báo Tin Mừng và những giá trị nhân bản
cho con người thì chính họ cũng phải là những người có dồi dào, phong
phú những giá trị đó, để họ không bị rơi vào tình trạng cho cái họ không
có.
[1] Thiên Phúc, nhân bản Kitô giáo, tủ sách giáo dục, tr.9.
[2] Gioan Phaolô II. Tông huấn Pastores Dabo Vobis, số 43.
[3]
Xc. Ban Giáo sư Đại Chủng viện Thánh Giuse Xuân Lộc, Linh mục sống đức
tin theo gương nhân bản của Chúa Giêsu, truy cập ngày 09-03-2013, trên:
http://tonggiaophanhanoi.org/on-thien-trieu/dai-chung-vien/5131-linh-muc-song-duc-tin-theo-guong-nhan-ban-cua-chua-giesu
[4] Piô XII, huấn đức cho dòng Cát Minh, ngày 23.9.1951.
[5] Xc. Công Đồng Vatican II, Sắc lệnh Optatam Totius, số 11.
[6] Xc. Gioan Phaolô II, tông huấn Pastores Dabo Vobis , số 43.
[7] Các nhân đức được đề cập đến trong các văn kiện Giáo Hội. X. OP, số 3; GLGHCG, số 1804-1811.
[8] “Tiểu
kỷ” chính là cái tôi bé nhỏ, cam chịu thân phận hèn mọn, bị động, nhờ
ân huệ, vun quén, xà xẻo, khôn khéo lẩn tránh, não trạng khép kín, luồn
cúi, khúm núm, an phận, phụ thuộc, manh mún, tiểu xảo, rình được một cơ
hội nào đó thuận tiện thì tìm cách xoay xở, vun quén chút ít cho cái tôi
nhỏ bé … X. Trần Đình Hượu, Đến hiện đại từ truyền thống, NXB Văn
Hoá, in lần thứ hai, Hà Nội 1996, tr. 390-391.
[9] Xc.
Nguyễn Thái Hợp, Để họ lớn lên, tr. 15-48; Ly Tâm, «Tiếng nói từ
trái tim», trong Lê Nhân Tâm, Giới trẻ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới,
Tp. HCM 2004, 18-26.
[10] “Nếu
như trước đây, người Việt Nam tin vào Trời - Phật độ trì, vào thiên
mệnh của Nho giáo, vào Thiên Chúa của Kitô giáo, vào Ông bà Tổ tiên
chứng giám thì giờ đây, những bài học bài bác thái độ duy tâm, đề cao
chủ nghĩa duy vật từ 30 năm qua dường như đang có hiệu quả rõ rệt là xoá
bỏ niềm tin mang tính tín ngưỡng ấy của người Việt. Nhưng một khi con
người đánh mất ý nghĩa của đời sống tinh thần, chối bỏ sự hiện diện của
chủ thể luân lý tối cao như là nền tảng cho đạo đức xã hội thì người ta
dám làm bất cứ điều gì để chiều theo những tham vọng và dục vọng! Luật
pháp không có khả năng khám phá tất cả những hành động bí ẩn của con
người bắt nguồn từ trong tâm trí. Vì thế, khi tin vào một chủ thể luân
lý tối cao nhìn thấu lòng mình (Trời cao có mắt), con người mới ý thức
và tự nguyện sống theo lương tâm ngay chính, vượt qua những quyến rũ của
vật chất, đam mê để sống đạo đức. Từ căn bản đạo đức này, người Việt
mới có thể vượt qua những tệ nạn như: dối trá, tham nhũng, quan liêu,
lãng phí, phá thai… đang tràn lan trong xã hội hiện thời.”, Nguyễn Ngọc
Sơn, Cấu trúc văn hoá xã hội của người Việt Nam trong hoạt động xã hội,
mục 2.3.4., mạng lưới Dũng Lạc, http://www.dunglac.org/index.php?m= module2&v = detailarticle&id=45&ia=635.
[11]
Xc. Đinh Đức Đạo, Integral Development according to the Encyclical
“Populorum Progressio”. An anthropological approach to the problem
viewed within a world-wide context, Academia Alfonsiana, Roma 1976, tr.
14-22; Nguyễn Thái Hợp, Để họ lớn lên, Đức tin & Văn hoá -2005,
tr. 9, 179-208.
[12] Gioan Phaolô II. Tông huấn Pastores Dabo Vobis, số 44.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét