Học
thuộc lòng đoạn Kinh Thánh
Lời
Chúa: "Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành
những ngư phủ lưới người ta". (Mt 4,17)
Lời
Chúa: Is 8,23b – 9,3; 1Cr 1,10-13.17; Mt
4,12-23
LỰA
CHỌN CỦA CHÚA GIÊSU - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Địa lý
nước Do Thái chia làm ba miền. Miền Nam được gọi là Giuđêa. Miền Trung là
Samaria. Miền Bắc là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung
tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem.
Đền thờ
Giêrusalem là trái tim của dân tộc Do Thái. Hằng năm người ở mọi miền tuôn về
Giêrusalem dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo. Có dinh thầy cả
thượng phẩm. Có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Người ở Giuđêa coi Giêrusalem
là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người ở Samaria,
coi Samaria là ngoại đạo vì người ở Samaria xây cất đền thờ riêng trên núi
Garidim. Người ở Giuđêa không bao giờ đi lại tiếp xúc với người Samaria. Còn
miền Galilêa ở phía Bắc, tuy không có đền thờ đối nghịch với Giuđêa, nhưng bị
Giuđêa khinh miệt vì đó là nơi pha tạp đủ mọi sắc dân, là đất của dân ngoại.
Người
đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ
mọi chủng tộc đã biết mở lòng đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa
vì ở đây không có loại trừ, mọi người biết đón nhận nhau, chung sống hòa thuận.
Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng đất bị khinh miệt, dân cư bị gạt ra ngoài
lề xã hội. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã không để giáo lý của Người bị
đóng khung trong bốn bức tường đền thờ, bị giới hạn trong một khung cảnh địa lý
và dành riêng cho một giai cấp. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã vạch ra cho
Giáo Hội một đường hướng. Đó là ra đi, ra đi không ngừng nghỉ, ra đi đến
những chân trời xa lạ, ra đi đến với mọi người thuộc đủ mọi chủng tộc, ngôn
ngữ, màu da. Đó là đi đến với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị gạt ra
ngoài lề xã hội.
Việc
lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không lựa chọn môn đệ
trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời. Người không lựa chọn những
kẻ nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người
không chọn những người trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn
những anh thuyền chài, đơn sơ, cục mịch. Ý định truyền giáo của Người là rất rõ
ràng. Người lựa chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không
ngần ngại, không do dự. Người lựa chọn những con người có trái tim mở rộng,
biết hy sinh quên mình, không bám víu vào bất cứ một điểm tựa nào, dù là lề
luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa.
Bỏ tất cả để chỉ đi theo Chúa.
Những
lựa chọn của Chúa Giêsu khiến tôi hiểu rằng: Người yêu thích những tâm hồn rộng
mở biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn
sơ nhỏ bé, ưa thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những tâm
hồn nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin
Mừng. Đó là những thửa đất tốt cho hạt giống Tin Mừng nảy mầm, đơm bông kết
trái.
Lạy
Chúa Giêsu, xin mở lòng con để con đón nhận được Lời Chúa và để Lời Chúa sinh
nhiều bông hạt.
ĐGH
Phanxico : "CÁC TÔNG ĐỒ CÓ NHIỀU TỘI LỖI, NHƯNG CÁC NGÀI KHÔNG NÓI XẤU
NHAU"
Đức
Giáo Hoàng Phanxico cử hành Thánh lễ tại giáo xứ Santa Maria ở Guidonia thuộc
Roma. "Một cộng đoàn của những người lắm chuyện thì không thể có được đời
sống chứng tá"
"Có một tội mà tôi không tìm thấy nơi những người của các
Tông Đồ, được kể lại trong Tin Mừng: họ là những kẻ phản bội, những kẻ hèn
nhát, nhưng không nói xấu nhau." Đó là những gì Đức Giáo Hoàng nói trong
bài giảng Thánh Lễ cử hành trong giáo xứ Santa Maria tại Guidonia, một vùng
ngoại ô phía đông của thủ đô.
"Họ
đã phản bội Chúa, ngài nói thêm - nhưng có điều này họ không có, là lắm lời,
chúng ta đều là tội nhân, nhưng một cộng đoàn nơi có nhiều ông và nhiều bà lắm
chuyện là một cộng đoàn không thể làm chứng, tôi chỉ nói thế này: bạn muốn có
một giáo xứ hoàn hảo không? Thì đừng lắm chuyện, đừng, nếu bạn có một cái gì đó
chống lại một ai thì cứ gặp mặt mà nói. Đây là một dấu hiệu cho thấy Chúa Thánh
Thần hiện diện tại một giáo xứ, các tội lỗi khác, tất cả chúng ta có, một bộ
sưu tập các tội lỗi, người thì có tội này, kẻ phạm tội kia, chúng ta đều là
tội nhân, nhưng trong đó có một tội phá hủy một cộng đoàn là lắm chuyện, nói
chuyện xấu sau lưng người ta».
Trong
khi trích dẫn trước đó về Giu-đa, Đức Giáo Hoàng đã nói rằng chúng ta không
biết những gì xảy ra với anh ta bởi vì "Thiên Chúa có lòng thương
xót", tuy nhiên các tông đồ khác cũng đã bỏ rơi Chúa Giêsu.
Trong
chuyến thăm này cua ngài tại nhà thờ giáo xứ Santa Maria ở Setteville Guidonia,
Đức Phanxico muốn dành những giày phút đặc biệt và riêng tư để thăm cha phó,
Don Joseph Berardino, 47 tuổi, bị bệnh nặng từ ba năm nay. Qua cuộc gặp gỡ
riêng tư này của Đức Thánh Cha Phanxicô kéo dài khoảng mười phút, ngài muốn
mang lại sự hỗ trợ và thêm năng lực của mình bằng những giây phút cầu nguyện và
nói lên lời động viên với linh mục.
Đức
Phanxico cũng gặp những thực tế mục vụ của giáo xứ. Đặc biệt: ba mươi bệnh
nhân, các bạn trẻ của các lớp giáo lý, các đôi vợ chồng đã rửa tội con cái của
họ trong năm 2016, và các tác viên mục vụ. Và sau hết ngài cũng đã giải tội
cho một số giáo dân.
Những
cuộc thăm viếng của Đức Thánh Cha đến các giáo xứ Roma đã bị đình chỉ trong
Năm Thánh đặc biệt của lòng thương xót. Đây là lần thứ hai Đức Phanxico tới
Setteville Guidonia. Thật vậy, vào ngày 16 tháng 3 năm 2014, Đức Bergoglio đã
viếng thăm giáo xứ Santa Maria dell'Orazione.
"Nhiều
Kitô hữu - Đức Phanxico đã nhận xét trong bài giảng - tuyên xưng rằng Chúa
Giêsu là Thiên Chúa. Nhưng họ có thật sự làm chứng về Chúa Giếu không? hoặc đối
với một số người trở nên Kitô hữu nó chỉ là một cách sống, là một fan hâm mộ,
theo một triết lý nào đó. Trở thành một Kitô hữu trước hết là để làm chứng cho
Chúa Giêsu. Các Tông đồ đã làm như thế cho đến khi tử đạo. Các ngài đã thí
mang sống của mình".
"Các
tông đồ - Đức Giáo Hoàng nói tiếp - họ không làm một khóa học để làm chứng cho
Chúa Giếu. Các ngài đã cảm thấy tron chính mình có Chúa Thánh Thần. Các ngài
là người tội lỗi, đến cả việc phản bội Chúa, như Thánh Phêrô. Tuy nhiên, cho dù
là tội nhân các ngai vẫn để mình được cứu độ . Là nhân chứng không có nghĩa là
thánh nhân. Nó có nghĩa là một tội nhân biết tin vào sự tha thứ của Chúa."
"Tôi
muốn để lại cho anh chị em - Đức Thánh Cha kết luận - một thông điệp: khi đọc
Tin Mừng tôi không tìm thấy một số tội lỗi nơi các tông đồ ... không nói xấu
nhau; không "bôi nhọ nhau". Loại tội này các ngài không phạm. Các
ngài có những tội lỗi khác nhưng chưa bao giờ hành động chống lại cộng đoàn. Ai
hành động chống lại cộng đoàn thì không làm chứng tá. Vì vậy, trong các giáo xứ
cần phải có: đoàn kết với nhau và không bao giờ phá hoại người khác.Lắm chuyện
là phá hủy cộng đoàn. Chúng ta phải làm chứng nhân cho dù chúng ta đều là tội
nhân. Ước gì Chúa ban cho anh chị ân sủng này."
Cuối
cùng, Đức Phanxico để kết thúc chuyến thăm của ngài như thế này: "anh chị
em đừng quên cầu nguyện cho tôi. Và không nên lắm chuyện!".
Câu
Giáo lý 347: H./ Bí tích Hôn Phối được cử hành thế nào?
T./ Bí
tích Hôn Phối được cử hành cách công khai, trước sự chứng kiến của vị đại diện
Hội Thánh và những người làm chứng [343].
Người
Công giáo và vấn đề lập bàn thờ gia tiên
Hỏi
: Đạo Công Giáo ngày nay có cho phép gia đình Công Giáo được lập bàn thờ
ông bà cha mẹ đã khuất hay không ? Có được thắp nhang đèn, van vái trước bàn
thờ tổ tiên, tổ chức giỗ chạp theo phong tục cổ truyền đối với người quá cố như
các gia đình Việt Nam khác không có đạo không ?
Trường
hợp gia đình cha mẹ con chỉ thờ phượng ông bà tổ tiên thôi thì khi lập gia đình
chúng con có thể khấn lạy ra mắt ông bà tổ tiên của gia đình mình cũng như bên
gia đình nhà vợ không ?
Anh M.
thân mến,
Như anh đã biết người Công Giáo cũng có
bổn phận thảo hiếu với cha mẹ và tổ tiên ông bà. Ngoài việc chăm lo phụng dưỡng
khi còn sống mà cả khi đã qua đời cũng luôn phải nhớ ơn, xin lễ và và cầu
nguyện cho các ngài nữa.
Nhân
câu hỏi của anh về việc lập bàn thờ cho ông bà, cha mẹ đã khuất và giỗ chạp
theo phong tục cổ truyền của người Việt Nam tôi xin trích Thông cáo của Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam làm tại Đà Lạt, ngày 14 tháng 6 năm 1965 xin Tòa Thánh
áp dụng huấn thị Plane compertum est(8-12-1939) về việc tôn kính tổ tiên
đã được Bộ Truyền giáo chấp thuận Ngày 20-10-1964 :
Thể
thức áp dụng Huấn thị Plane compertum est
1)
Nhiều hành vi cử chỉ xưa kia tại Việt Nam, có tính cách tôn giáo, nhưng nay vì
sự tiếp xúc với bên ngoài và vì tâm tình, tập quán đã thay đổi nhiều, nên chỉ
còn là những phương cách biểu lộ lòng hiếu thảo tôn kính đối với tổ tiên và các
bậc anh hùng liệt sĩ. Những cử chỉ, thái độ, nghi lễ có tính cách thế tục, lịch
sự và xã giao đó, Giáo Hội Công Giáo chẳng những không ngăn cấm mà còn mong
muốn và khuyến khích cho nó được diễn tả bằng những cử chỉ riêng biệt của mỗi
nước, mỗi xứ và tùy theo trường hợp.
Vì thế,
những cử chỉ, thái độ và nghi lễ tự nó hoặc do hoàn cảnh, có một ý nghĩa thế
tục rõ ràng là để tỏ tinh thần ái quốc, lòng hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng
niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ (như treo ảnh, hình, dựng tượng,
nghiêng mình bái kính, trưng hoa đèn, tổ chức ngày kỵ, giỗ…) thì được thi hành
và tham dự cách chủ động.
2) Trái
lại, vì có nhiệm vụ bảo vệ đức tin Công Giáo được tinh tuyền, Giáo Hội không
thể chấp nhận cho người giáo hữu có những hành vi cử chỉ, hoặc tự nó, hoặc do
hoàn cảnh có tính cách tôn giáo trái với giáo lý mình dạy.
Vì thế,
các việc làm có tính cách tôn giáo không phù hợp với giáo lý Công Giáo (như bất
cứ lễ nghi nào biểu lộ lòng phục tùng và sự lệ thuộc của mình đối với một thụ
tạo nào như là đối với Thiên Chúa), hay những việc dị đoan rõ rệt (như đốt vàng
mã), hoặc cử hành ở những nơi dành riêng cho việc tế tự… thì giáo hữu không
được thi hành và tham dự. Trong trường hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện diện một
cách thụ động như đã ấn định trong giáo luật, khoản 1258 (GL 1917).
Một văn
kiện nữa là thông cáo của Hàng Giám Mục Việt Nam sau Đại Hội toàn quốc kỳ VII
về Truyền Bá Phúc Âm toàn quốc đã diễn ra tại Nha Trang từ ngày 12 đến 14 tháng
11 năm 1974 cụ thể hoá hơn nữa những gì được thực hiện phù hợp với tinh thần
hội nhập văn hoá của quê hương, đất nước . Kết thúc khóa họp, 7 giám mục tham
dự ra thông cáo về “Lễ Nghi Tôn Kính Ông Bà Tổ Tiên.” Các giám mục chấp thuận
và cho thi hành quyết nghị của Ủy Ban Giám Mục về Truyền Bá Phúc Âm ngày 19
tháng 4 năm 1972.
Thông
cáo giải thích thêm 6 điểm của quyết nghị 1972:
1. Bàn
thờ gia tiên để kính nhớ Ông Bà Tổ tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia
đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện điều gì mê tín dị đoan, như hồn bạch.
2. Việc
đốt nhang hương, đèn nến trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường
thờ Tổ tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm.
3. Ngày
giỗ cũng là ngày “kỵ nhật” được “cúng giỗ” trong gia đình theo phong tục địa
phương miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín, như đốt vàng mã, và giảm
thiểu cùng canh cải những lễ vật biểu dương đúng ý nghĩa thành kính biết ơn Ông
Bà, như dâng hoa trái, hương đèn.
4.
Trong hôn lễ, dâu rể được làm “Lễ Tổ, Lễ Gia Tiên” trước bàn thờ, giường thờ Tổ
tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình diện với Ông Bà.
5.
Trong tang lễ được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong
tục địa phương để tỏ lòng cung kính người đã khuất cũng như Giáo Hội cho đốt
nến, xông hương nghiêng mình trước thi hài người quá cố.
6. Ðược
tham dự nghi lễ tôn kính vị thành hoàng quen gọi là phúc thần tại đình làng, để
tỏ lòng cung kính biết ơn những vị mà theo lịch sử đã có công với dân tộc hoặc
là ân nhân của dân làng, chứ không phải là mê tín như đối với các “yêu thần, tà
thần”.
Hi vọng
những điều vừa trình bầy giúp anh và nhiều người khác hiểu rõ lập trường của
Hội Thánh đối với phong tục của dân tộc Việt Nam. Việc tôn kính tổ tiên không
những chỉ là một việc nên làm mà còn là bổn phận và nghĩa vụ của con cháu theo
lệnh truyền của Chúa là thảo kính cha mẹ, giới răn đứng ngay sau việc thờ
phượng Chúa.
Đó là
một ngày đẹp trời vào những năm 1854~1855, khi cậu bé Thomas mới khoảng 7 tuổi.
Hôm ấy, Thomas chạy từ trường về nhà và nói với mẹ: “Mẹ, thầy giáo bảo con đưa
cho mẹ cái này!”
Bà Nancy
Elliott cẩn thận mở ra đọc, bên trong là lá thư của giáo viên chủ nhiệm gửi phụ
huynh em Thomas. Bỗng nước mắt bà giàn giụa khiến cậu bé Thomas đứng ngẩn người
ra vì kinh ngạc, cậu hỏi mẹ rằng thầy giáo đã viết gì trong đó?
Ngập
ngừng một lát, bà Nancy đọc to lá thư cho con trai mình:
“Con
trai của ông bà là một Thiên Tài! Nhưng ngôi trường này quá nhỏ, các giáo viên
của chúng tôi cũng không có đủ năng lực để dạy dỗ cậu bé. Bởi vậy, xin ông bà
hãy tự kèm cặp con trai mình”.
Một
ngày khi Thomas xem lại những kỷ vật của gia đình, cậu vô tình nhìn thấy một tờ
giấy gập nhỏ được cất trong ngăn kéo bàn. Thomas tò mò đã mở ra đọc, trước mắt
cậu chính là lá thư của thầy giáo năm nào. Trên đó viết:
“Con trai ông bà là đứa trẻ rối trí (tâm thần). Chúng tôi không
thể chấp nhận cho trò ấy đến trường được nữa”.
Thomas đã khóc hàng giờ sau khi đọc lá thư ấy.
Về sau, cậu viết trong nhật ký rằng:
“Thomas
Alva Edison là một đứa trẻ rối trí, mà, nhờ có một người mẹ anh hùng, cậu đã
trở thành thiên tài của thế kỷ”.
Câu
chuyện trên là một giai thoại nổi tiếng về thiên tài sáng chế Thomas Edison.
Việc thầy giáo gọi Edison là đứa trẻ “rối trí” là có thật, việc Edison bị đuổi
học là có thật, và việc Edison được mẹ kèm cặp riêng tại nhà cũng là có thật.
Ngày
nay chúng ta nhắc về Thomas Edison như một nhà phát minh lỗi lạc, một biểu
tượng của trí tuệ và thành công. Thế nhưng tuổi thơ của ông lại gắn liền với
một chuỗi những thất bại. Các giáo viên trong trường ruồng bỏ và coi Edison là
đứa trẻ đần độn “không thể dạy dỗ được”; cha của ông thì cho rằng Edison có vấn
đề về thần kinh và chậm phát triển, mãi tới 4 tuổi mới bắt đầu biết nói; bác sĩ
gia đình thì e ngại rằng trí não của Edison bị tổn hại từ thuở lọt lòng; bản
thân ông cũng là đứa trẻ yếu ớt và hay đau ốm, đến mức người ta lo sợ rằng
Edison sẽ không thể sống tới tuổi trưởng thành…
Thế
nhưng, khi tất cả mọi người đều quay lưng và nói rằng Edison là không có triển
vọng, thì vẫn có một người luôn đặt trọn niềm tin vào ông. Đó chính là “người
mẹ của Thiên tài” bà Nancy Elliott – người không bao giờ từ bỏ hy vọng vào
con trai mình. Chính tình yêu và sự hy sinh vĩ đại ấy đã nâng đỡ và đánh thức
tiềm năng trong ông, gieo vào ông những hạt giống của niềm tin để chúng nảy nở,
đơm hoa, rồi kết trái. Và nếu không có một người mẹ như bà Nancy Elliott, có lẽ
nhân loại chúng ta sẽ vắng bóng những chiếc bóng đèn điện, những chiếc máy quay
đĩa, máy chiếu phim, máy ghi âm, và hàng ngàn phát minh ưu việt khác.
MỞ CỬA NHÀ THỜ
#GNsP (17.01.2017) – Tông Huấn “Niềm Vui
Tin Mừng” 46.“ …chúng ta phải giống như người cha của đứa con hoang đàng, luôn
luôn để cửa mở hầu khi đứa con trở về, nó có thể vào ngay trong nhà.
Hội
Thánh được kêu gọi trở thành Nhà Cha, luôn luôn mở rộng cửa. Một dấu hiệu của
sự mở ra này là các nhà thờ của chúng ta phải luôn luôn mở cửa, để nếu có ai
được Chúa Thánh Thần thúc đẩy đến đây tìm Thiên Chúa, họ sẽ không thấy cửa nhà
thờ đang đóng…”
Chúng
ta nghĩ sao về lời của Đức Thánh Cha Phanxicô?
Hãy đi
một vòng các nhà thờ quanh khu vực, quanh thành phố của chúng ta đang ở, đếm
xem mấy nhà thờ mở cửa, mở cổng, cả ngày. Đếm xong sẽ thấy cách sống đạo của
chúng ta, và sẽ có ngay câu trả lời tại sao công việc loan báo Tin Mừng của
chúng ta trì trệ.
MẮC
NỢ...
Ôi linh
mục ! Một cuộc đời mắc nợ !
Đến bao giờ mới trả cho xong?
Nhìn lại chính mình : Ôi kiếp phận long đong
Đến bao giờ mới trả cho xong?
Nhìn lại chính mình : Ôi kiếp phận long đong
Nợ lời
cam kết từ thuở lên bàn thánh.
Nợ bài Thánh Vịnh chưa tròn của giờ Kinh Sáng
Nợ những giờ Chầu Thánh Thể chiều đông…
Nợ bài Thánh Vịnh chưa tròn của giờ Kinh Sáng
Nợ những giờ Chầu Thánh Thể chiều đông…
Mắc nợ
bao người kẻ liệt ngóng trông,
Mắc nợ bài giảng chưa xong của ngày Chúa Nhật…
Mắc nợ bài giảng chưa xong của ngày Chúa Nhật…
Mắc nợ
người nghèo bàn tay thân mật,
Mắc nợ những em thơ ánh mắt dễ thương…
Mắc nợ những em thơ ánh mắt dễ thương…
Tôi nợ
người trẻ nhiệt huyết để lên đường,
Nợ các gia đình những lần ủi an thăm viếng…
Nợ các gia đình những lần ủi an thăm viếng…
Nợ đức
khó nghèo, nợ lòng trong trắng,
Để nêu gương thánh thiện cho đời.
Để nêu gương thánh thiện cho đời.
Nợ bao
nhiêu cuộc sống lứa đôi,
Trái tim yêu thương và ánh nhìn thông cảm.
Trái tim yêu thương và ánh nhìn thông cảm.
Nợ
những bước chân của trưa nắng gắt, của chiều đông lạnh,
Để về thăm bao địa chỉ khó nghèo,
Những cụ già, những bệnh nhân trong xó tối hẩm hiu…
Khao khát chờ mong, chỉ một lần, gặp người mục tử !
Để về thăm bao địa chỉ khó nghèo,
Những cụ già, những bệnh nhân trong xó tối hẩm hiu…
Khao khát chờ mong, chỉ một lần, gặp người mục tử !
Nợ
những anh chị em cùng tôi chung một lý tưởng,
Tình huynh đệ, hiệp nhất và chung chia sướng khổ vui buồn.
Tình huynh đệ, hiệp nhất và chung chia sướng khổ vui buồn.
Nợ
những người lương, người phật, cả những kẻ vô thần,
Cuộc sống chứng nhân và tinh thần bao dung đối thoại.
Cuộc sống chứng nhân và tinh thần bao dung đối thoại.
Nợ màu
trắng của mây, nợ màu xanh của lá,
Vũ trụ đẹp vô cùng sao lòng vẫn cứ khô ran…
Vũ trụ đẹp vô cùng sao lòng vẫn cứ khô ran…
Nợ đức
hy sinh, lòng nhẫn nhục, nợ trái tim vàng, …
Mà những người cọng tác vẫn hằng luôn mong đợi…
Mà những người cọng tác vẫn hằng luôn mong đợi…
Nợ
những cô gái, những chàng trai bên vệ đường tội lỗi,
Họ vẫn mãi chưa về tìm lại mái ấm của người Cha…
Họ vẫn mãi chưa về tìm lại mái ấm của người Cha…
Thánh
lễ chiều nay sao vắng tiếng thánh ca ?
Ôi linh
mục Một cuộc đời làm sao ta trả hết !
LM.
Trương Đình Hiền
1. Chuẩn bị trước khi đăng ký Hôn phối
1.1
Giáo lý Hôn nhân : đôi bạn phải học tối thiểu 3 tháng. Học sớm càng tốt để xuất
trình chứng chỉ khi đăng ký Hôn phối. Hoặc đăng ký Hôn phối rồi tiếp tục học,
miễn sao trước ngày cưới phải có chứng chỉ.
1.2 Hồ sơ Hôn phối cần chuẩn bị :
a- Giấy
xác nhận và giới thiệu của Trưởng khu
b- Giấy
giới thiệu của cha xứ bên kia
c-
Chứng chỉ Rửa tội mới cấp không quá 6 tháng (có ghi chú quan trọng : tình trạng
độc thân).
d-
Chứng chỉ Thêm sức (nếu chưa, thì kiếm nơi học khoá căn bản để kịp chịu Thêm
sức).
e-
Chứng chỉ Giáo lý Hôn nhân (bản chính kèm bản sao).
f- Sổ
gia đình Công giáo và Tờ khai gia đình Công giáo của giáo xứ đang thụ lý hồ sơ.
g- Giấy
Chứng nhận Kết hôn (bản chính kèm bản sao).
1.3 Sổ
gia đình Công giáo : mua mới.
2. Đăng
ký Hôn phối
2.1
Đăng ký Hôn phối bên đàng trai hay đàng gái đều được cả. Bên nào nhận làm lễ
cưới thì đăng ký bên ấy. Người bán cư trú cũng được đăng ký Hôn phối.
2.2
Trình diện : ít nhất 3 tháng trước ngày dự định xin lễ cưới, đôi bạn cùng cha
hoặc mẹ đến trình diện nơi cha xứ Thụ lý Hồ sơ Hôn phối. Nếu không còn cha mẹ,
thì người thân nhất đi thay : anh chị, chú bác, cô dì…
2.3
Xuất trình Hồ sơ Hôn phối như mục 1.2 ghi trên.
2.4 Đôi
bạn tự viết Tờ khai Hôn phối, sau đó từng người gặp riêng cha xứ để trình bày
khúc mắc, nếu có
2.5 Bạn
ở giáo xứ bên kia : viết Tờ khai Hôn phối để cha xứ chứng thực (như ở Gp….),
rồi đem Tờ khai này cùng với giấy giới thiệu của cha xứ đưa sang cho cha xứ bên
này.
2.6 Cha
xứ và đôi bạn xác định thời gian, địa điểm xin lễ cưới (phối hợp giữa ngày lễ
cưới và ngày tiệc cưới).
2.7 Cha
xứ lập Tờ rao Hôn phối, gửi tờ rao cho cha xứ bên kia (sau 3 lần rao, đến xin
kết quả đem về), dù bên kia là tân tòng, cha xứ cũng phải nhận rao (khu xóm có
thể biết tình trạng để trình báo). Nơi đâu đôi bạn cư ngụ quá 6 tháng (lúc đó :
nam trên 20 tuổi, nữ trên 18 tuổi) thì phải gửi đến Tờ rao Hôn phối.
2.8
Trường hợp xin cử hành lễ cưới ở nơi khác, thì cha xứ sẽ gửi giấy giới thiệu
kèm với toàn bộ Hồ sơ Hôn phối
2.9 Nếu
Hồ sơ chưa đủ (td. đến ngày cưới mới có chứng chỉ Giáo lý Hôn nhân, mới có Giấy
Chứng nhận Kết hôn), thì cứ viết Tờ khai Hôn phối trước và xin đăng ký ngày giờ
lễ cưới sẵn (trước 3 tháng), sau đó ít nhất 3 tuần trước ngày cưới phải đến
đăng ký chính thức (bổ túc giấy tờ), để kịp rao 3 lần.
3.
Chuẩn bị lễ cưới
3.1 Tập
Nghi thức Hôn phối vài ngày trước lễ cưới, đem theo Sổ gia đình công giáo mới :
ghi đầy đủ lý lịch.
3.2 Nộp
lại Tờ rao Hôn phối từ xứ bên kia.
3.3 Bổ
túc giấy tờ, nếu còn thiếu.
3.4
Liên hệ với nhà thờ về việc ca đoàn, hoa, nến, trang trí…
3.5
Xưng tội, nếu đã quá 1 tháng – nên thưa là chuẩn bị lễ cưới, để cha giải tội có
lời khuyên thích hợp.
4. Hôn
phối với ngoại kiều
4.1 Học
Giáo lý Hôn nhân như mục 1.1 nêu trên.
4.2 Hồ
sơ Hôn phối như mục 1.2c-d-e-f nêu trên.
4.3
Giấy Chứng nhận Kết hôn do Sở Tư pháp cấp, không bắt buộc nộp Visa.
4.4
Giấy giới thiệu do cha xứ của đương sự ở ngoại quốc cấp kèm với chứng chỉ Giáo
lý Hôn nhân.
4.5 Cha
chánh xứ có thể cho rao hôn phối trước, dù một trong hai người chưa có mặt ở
Việt Nam; nhưng không được nhận xác định ngày cử hành hôn phối, nếu chưa đầy đủ
giấy tờ cần thiết.
5.
Chuẩn Hôn phối khác đạo
5.1 Đôi
bạn đều phải học Giáo lý Hôn nhân như mục 1.1 nêu trên
5.2 Hồ
sơ Hôn phối của người Công giáo như mục 1.2
5.3 Đôi
bạn viết Đơn xin Phép chuẩn Hôn phối khác đạo, để cha xứ xác nhận và đệ trình
Toà TGM chấp thuận.
5.4
Nghi thức Hôn phối được cử hành trong nhà thờ (hoặc nơi thích hợp) ngoài thánh
lễ.
5.5
Không nhận thủ tục Phép chuẩn Hôn phối khác đạo cho những người ở xa đến.
5.6
Không nhận thủ tục Phép chuẩn Hôn phối khác đạo với trường hợp ngoại kiều. Tuy
nhiên, Toà TGM có thể ban phép chuẩn cho trường hợp riêng : nếu có một linh mục
ở ngoại quốc nơi đôi bạn cư ngụ viết giấy xác nhận bảo đảm hướng dẫn đời sống
đức tin cho bạn Công giáo.
6. Ghi
chú
6.1 Dự
tòng : nên rửa tội trước ngày cưới khoảng 1-3 tháng, kèm giấy Chứng nhận Kết
hôn (bảo đảm lấy nhau).
6.2 Tân
tòng : sau khi được rửa tội phải gửi ngay chứng chỉ rửa tội cho cha xứ nơi mình
cư trú để được nhập xứ : từ nơi đây giới thiệu hôn phối hoặc mở hồ sơ hôn phối,
chứ không phải tại nhà thờ đã cho rửa tội.
6.3
Trường hợp chuẩn Hôn phối khác đạo, cha xứ bên ngoại cũng rao hôn phối (có khi
khu xóm biết hoàn cảnh). Do thuận lợi, cha xứ bên ngoại cũng được thụ lý hồ sơ
hôn phối của phép chuẩn hôn phối khác đạo.
Đức TGM
Phaolô Bùi Văn Đọc phê chuẩn ngày 10.08.2015
CÁC
NGÀY LỄ TRONG TUẦN:
Thứ Ba
24-1: T. Phanxico Salêsiô Giám mục. tiến sĩ H.thánh
Thứ Tư
25-1: Thánh Phaolo tông đồ trở lại ( lễ kính)
Thứ Năm
26-01: Thánh Thêmôthêô và Titô, giám mục ( lễ nhớ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét