Suy Tôn Lời
Chúa
Chúa Nhật II
Mùa Vọng B – Mc 1,1-8
Thứ Tư –
3/12/2014
XIN ƠN THÁNH THẦN
Lạy Chúa Giê-su, Nguyện xin Chúa ban
Thánh Thần đến giúp chúng con tham dự giờ suy tôn Lời Chúa chiều nay thật
sốt sắng để Mùa Vọng này, chúng con biết dọn đường Chúa đến cõi lòng mình hầu
chúng con được Chúa cứu độ.
(Cộng đoàn hát: Lạy Chúa Thánh Thần, xin
Ngài ngự đến…)
GỢI Ý TÌM HIỂU TIN MỪNG Mc
1,1-8
DỌN ĐƯỜNG ĐỂ
ĐÓN TIẾP CHÚA
A.
LỜI MỞ ĐẦU
Kính thưa cộng đoàn!
Chúa Nhật I Mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi Ki-tô hữu “Hãy tỉnh thức
chờ đợi Chúa đến lần thứ hai” (Mc 13,33-37); và Chúa Nhật II Mùa Vọng, qua đoạn
Tin Mừng Mc 1,1-8 chúng ta vừa đọc, Giáo Hội tiếp tục mời gọi chúng ta bằng
cách trưng dẫn lời rao giảng của Ông
Gioan Tẩy Giả khi Ông này lặp lại lời của ngôn sứ I-sai-a: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa,
sửa lối cho thẳng để Người đi.” Ông kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám
hối để được ơn tha tội.
B.
TÌM HIỂU CHI TIẾT
Đoạn trích chúng ta đọc là phần mở đầu của sách Tin Mừng theo thánh
Mác-cô được cấu trúc như sau:
1. Nhan đề (1. 1)
2. Sứ mạng Gioan Tẩy Giả (1. 2-8)
2.1- Chứng từ của các ngôn sứ (1. 2-3)
2.2- Hoạt động và lối sống của Gioan Tẩy giả (1. 4-6)
2.3- Chứng từ của Gioan Tẩy giả (1. 7-8).
2. Sứ mạng Gioan Tẩy Giả (1. 2-8)
2.1- Chứng từ của các ngôn sứ (1. 2-3)
2.2- Hoạt động và lối sống của Gioan Tẩy giả (1. 4-6)
2.3- Chứng từ của Gioan Tẩy giả (1. 7-8).
1. Nhan đề (1. 1)
Sách Tin Mừng Mác-cô không mở đầu với Tựa Ngôn như sách Tin Mừng
Gioan, cũng không mô tả cuộc đời Thơ Ấu của Đức Giê-su như sách Tin Mừng
Mát-thêu và sách Tin Mừng Lu-ca, nhưng với một nhan đề: “Khởi đầu Tin Mừng về
Đức Giê-su, Đấng Ki tô, Con Thiên Chúa”. Với nhan đề nầy, ngay từ đầu, thánh
Mác-cô loan báo sách được chia thành hai phần:
- Phần thứ nhất (1: 2-8:
30): Đức Giê-su dần dần vén mở sứ mạng của mình: Ngài là “Đấng Ki-tô”. “Đấng Ki-tô” được phiên
âm từ từ Hy lạp “Christos”, xuất xứ từ nguyên ngữ Do thái “Đấng Mê-si-a”, nghĩa
là Đấng được Thiên Chúa xức dầu và đặc phái đến để thiết lập Vương Quốc của
Ngài vào thời cánh chung. Như vậy, trong phần thứ nhất, thánh Mác-cô muốn dẫn
đưa độc giả của mình cùng với thánh Phê-rô và các môn đệ đến chỗ nhận biết và
tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô” (8: 29). Nhưng vào thời Đức Giê-su, tước
hiệu “Đấng Ki-tô” rất dễ ngộ nhận. Dân Do thái sau một thời gian dài bị đế quốc
nầy đến đế quốc khác thống trị và áp bức, nên mong chờ một vị vua trần thế được
Thiên Chúa ban quyền năng để đánh đông dẹp tây, mở rộng vương quyền và đem lại
cảnh thái bình thịnh trị cho dân tộc mình.
- Phần hai (8: 31-16:
20): Đấng Ki-tô bày tỏ cho các môn đệ chân tính của Ngài là “Con Thiên Chúa”. Danh xưng nầy cũng là
một trong những tước hiệu của Đấng Mê-si-a. Các vua Phương Đông thời xưa cũng
thường tự xưng mình là “thiên tử”. Nhưng Đức Giê-su dần dần bộc lộ cho thấy mối
tương quan thân tình đặc biệt và độc nhất vô nhị với Thiên Chúa, mà Ngài gọi là
Cha của mình. Chính Ngài công bố long trọng tước hiệu này trước vị thượng tế
(14: 61-62). Các môn đệ phải qua một thời gian dài mới khám phá ra nơi bản thân
Chúa Giê-su chính là Thiên Chúa đến sống giữa con người và nhờ cuộc Khổ nạn và
Phục sinh của mình, Ngài giải thoát loài người khỏi quyền lực Sự Dữ và Cái
Chết. Trong phần thứ hai nầy, Mác-cô muốn dẫn đưa độc giả của mình tới lời
tuyên xưng đức tin sâu sắc hơn, được thốt ra từ miệng viên sĩ quan Rô-ma, dưới
chân thập giá: “Quả thật, người nầy là Con Thiên Chúa” (15: 39).
Như vậy, với nhan đề nầy cho toàn bộ sách Tin Mừng của mình,
thánh Mác-cô xác định rất rõ rằng sách không kể cho chúng ta “tiểu sử cuộc đời”
của Đức Giê-su, nhưng là một “Tin Mừng”
về ơn cứu độ loài người được thể hiện cách độc đáo nơi bản thân Đức Giê-su quê
Na-da-rét, Ngài là “Đấng Ki-tô” và là “Con Thiên Chúa” qua cái mâu thuẫn của
thập giá. Chính Đức Giê-su là “Chúa” đến viếng thăm dân Ngài, không phải trong
quyền uy xét xử, nhưng trong cái yếu hèn của một tình yêu được trao tặng.
2. Sứ vụ của Gioan Tẩy giả
(1: 2-8):
Nhưng đây cũng là nhan đề cho phần dẫn nhập (1: 1-15) được phân
định bởi cách thức đóng khung rất quen thuộc của lối hành văn Do thái, bắt đầu
với chữ “Tin Mừng” ở câu 1 và kết thúc với chữ “Tin Mừng” ở câu 15. Thuật ngữ
“Tin Mừng” xuất xứ từ sách I-sai-a (Is 40: 9; 52: 7; 61: 1..) được dùng ở đây
để loan
báo một biến cố vui mừng có một tầm mức quan trọng bậc nhất, đó là Đức Giê-su,
Ngài là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa.
Trong phần dẫn nhập nầy, sứ vụ của Gioan Tẩy giả, người đi trước
dọn đường cho Đức Giê-su. Theo cách thức nầy, Tin Mừng Mác-cô trung thành với
sơ đồ của lời rao giảng tông đồ như được gặp thấy trong sách Công Vụ (1: 21t;
10: 37; 13: 24). Trong bộ Kinh Thánh, sách Sáng Thế cũng mở đầu với diễn ngữ:
“Khởi đầu”. Gioan Tẩy Giả loan báo Tin Mừng về Đức Giê-su, là Đấng Ki-tô và là
Con Thiên Chúa, Ngài đến để đánh dấu một khởi đầu tận căn, một khởi nguyên mới,
kỷ nguyên cứu độ.
2.1- Chứng từ của các ngôn sứ
(1: 2):
Ngay từ những hàng đầu tiên, thánh Mác-cô nêu bật hai điểm khác
biệt với các thánh ký khác. Trước tiên, các thánh ký nầy cũng đều trích dẫn sấm
ngôn của I-sai-a: “Có một tiếng kêu trong hoang địa…” nhưng sau khi đã nêu lên
sứ vụ của Gioan Tẩy giả (x. Mt 3: 3; Lc 3: 4; Ga 1: 23). Thứ đến, trước khi trích
dẫn sấm ngôn của I-sai-a, thánh Mác-cô trích dẫn một sấm ngôn khác: “Này Ta sai
sứ giả của Ta đi trước Con, để dọn đường cho Con đến”, sấm ngôn này được đúc
kết bởi hai bản văn Cựu Ước khác nhau: Xh 23: 20 và Ml 3: 1.
Trong Xh 23: 20, Thiên Chúa nói với ông Mô-sê: “Nầy Ta sai sứ
thần đi trước con, để gìn giữ con khi đi đường…”. Ngôn sứ Ma-la-khi lập lại lời
nầy nhưng với một ý nghĩa mới: “Nầy Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước
mặt Ta”. Trong sấm ngôn của Ml 3: 1, Thiên Chúa sai “sứ giả” của Ngài đến trước
dọn đường để “Ngài đích thân đến với dân Ngài”. Thật ra, thánh Mát-thêu và
thánh Lu-ca cũng trích dẫn sấm ngôn nầy, nhưng trong một bối cảnh khác và được
đặt trên môi miệng của Đức Giê-su (Mt 11: 10; Lc 7: 27).
Vị sứ giả trong sấm ngôn nầy là ai? Chúng ta gặp thấy căn tính
của vị sứ giả nầy ở Ml 3: 23 sau đó: “Nầy Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các
ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và huy hoàng”. Trong 2V
2: 11, ngôn sứ Ê-li-a không chết nhưng được rước về trời trong một cỗ xe đỏ như
lửa với những con ngựa kéo cũng đỏ như lửa. Vì thế, theo truyền thống Do thái
mãi cho đến thời Chúa Giê-su, vị sứ giả Ê-li-a sẽ trở lại để dọn đường cho Chúa
đến..
Sấm ngôn thứ hai được trích dẫn từ Is 40: 3 (bài đọc I): “Có một
tiếng hô: Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy
vạch một lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta”. Vị ngôn sứ loan báo cho những
những người lưu đày ở Ba-by-lon biết rằng Thiên Chúa sắp can thiệp để giải
thoát họ khỏi kiếp sống tù đày. Các tác giả Tin Mừng cũng đã thấy ở nơi “tiếng
hô nầy” tiên báo Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đức Giê-su, ông có sứ mạng đến
trước để dọn đường cho Đức Giê-su đến. Ở nơi lệnh truyền nầy: thung lũng sẽ
được lấp đầy, núi đồi sẽ phải bạt xuống, chúng ta gặp thấy cũng một lời dạy như
Gioan Tẩy Giả: phải thay lòng đổi dạ, biến đổi sa mạc tâm hồn thành miền đất thấm đẩm
thiên ân, hủy bỏ những quanh co uốn khúc của sự gian tà.
Theo phương cách trích dẫn phổ biến vào thời đó, thánh Mác-cô
gán toàn bộ lời trích dẫn nầy cho ngôn sứ I-sai-a, bởi vì chúng có chung một đề
tài: “dọn
đường để đón tiếp Thiên Chúa”. Như vậy, khi khai mạc sứ vụ của Gioan
Tẩy giả bằng lời trích dẫn nầy, thánh Mác-cô muốn cho thấy rằng việc Đức Giê-su
đến đã được Cha Ngài chuẩn bị trước đó rồi và ơn gọi của Gioan Tẩy giả, vị Tiền
Hô của Con Ngài, được dự kiến lâu lắm rồi trong kế hoạch của Thiên Chúa. Chính
Gioan Tẩy giả là ngôn sứ Ê-li-a, mà truyền thống Do thái mong đợi, trở lại để
dọn đường cho Chúa và việc ông xuất hiện cho thấy Thiên Chúa vẫn trung thành
với những gì Ngài đã hứa. Thời gian đã đến hồi viên mãn.
2.2- Hoạt động và lối sống
của Gioan Tẩy giả (1: 3-6).
Chúng ta lưu ý rằng khi trích dẫn sấm ngôn I-sai-a, thánh Mác-cô
đã tự ý ngắt câu cho phù hợp với hoàn cảnh hiện nay của Gioan Tẩy Giả. Thay vì
“Có tiếng hô: Trong sa mạc…”, thánh ký đổi thành “Có tiếng người hô trong hoang
địa…”. Quả thật, Gioan Tẩy giả đã ẩn cư trong hoang địa ngay từ thuở thanh xuân
để chuẩn bị sứ mạng của mình trong thinh lặng và chiêm niệm cho đến ngày ra mắt
dân Ít-ra-en (Lc 1: 80), như Đức Giê-su sẽ rút vào trong sa mạc trước khi khởi
đầu sứ mạng của mình.
Đây là sa mạc Giu-đa có dòng sông Gio-đan chảy băng qua và đổ
vào Biển Chết. Phải chăng thánh Gioan thuộc vào cộng đoàn Kum-ran, có mặt ở
trong miền nầy và sống trong sự chờ đợi Đấng Mê-si-a? Hay đơn giản, ông có giao
tiếp với cộng đoàn nầy? Phải nói rằng có rất nhiều điểm giống nhau giữa linh
đạo của các nhà khổ hạnh Kum-ran và linh đạo của thánh nhân, nhưng cũng có rất
nhiều điểm dị biệt.
Dù thế nào, sa mạc là nơi ẩn cư quen thuộc của những nhà thần bí
vĩ đại thời Cựu Ước và là nơi ưu tiên cho những cuộc gặp gở với Thiên Chúa, như
Mô-sê, Ê-li-a v.v… Cũng như chính trong sa mạc mà dân Ít-ra-en đã trải qua
những kinh nghiệm tôn giáo hình thành nên những mốc điểm lịch sử của dân tộc
mình.
Lời kêu gọi sám hối là đề tài thường hằng của
truyền thống ngôn sứ. Gioan Tẩy giả là vị ngôn sứ cuối cùng tiếp tục truyền
thống nầy, nhưng ông thêm vào đây phép rửa. Không phải trong sa mạc mà
nước mặc lấy tất cả giá trị và ý nghĩa tròn đầy của nó sao? Nước đem lại sự
sống và biểu tượng ơn cứu độ.
Gioan Tẩy giả sống theo lối sống khổ hạnh: “Ông mặc áo lông lạc
đà, thắt đai lưng bằng da, ăn châu chấu và mật ong rừng”. Qua việc mô tả cách
ăn mặc của Gioan giống như ngôn sứ Ê-li-a (1V 1: 8), thánh Mác-cô muốn thông
báo rằng, Gioan Tẩy giả chính là ngôn sứ Ê-li-a tái xuất hiện mà mọi người đang
mong đợi. Ngoài ra, qua việc mô tả tỉ mỉ cách sống khổ hạnh của Gioan tẩy giả
trong hoang địa cô tịch, thánh Mác-cô ngầm trình bày hình ảnh tương phản với Đức
Giê-su: Ngài giao tiếp gần gũi với đủ hạng người ở ngoài xã hội, cùng
ăn cùng uống, cùng chia sẻ cuộc sống vui, buồn, sướng khổ với họ. Quả thật, Tin
Mừng Mác-cô cống hiến cho chúng ta hình ảnh rất là người của Đức Giê-su: Ngài
ngủ say giữa cơn giông tố (4: 38), Ngài ngạc nhiên về việc các người đồng hương
của Ngài thiếu niềm tin (6: 6), Ngài không có thì giờ ăn uống (6: 31), Ngài
không biết khi nào ngày Thế Mạc sẽ đến (13: 32), nhất là Ngài chết như một kẻ
tuyệt vọng (15: 34). Nhưng chính ở nơi tính chất rất là người nầy, thánh Mác-cô
có ý định dẫn đưa người đọc vào mầu nhiệm của Đức Giê-su, Đấng Ki-tô và Con
Thiên Chúa.
2.3- Chứng từ của Gioan Tẩy
giả (1: 7-8).
Chứng từ của Gioan Tẩy giả về Đức Giê-su là cao điểm của đoạn
Tin Mừng hôm nay. Sứ điệp của ông làm xáo động lòng người. Uy tín của ông quá
lớn đến độ dân chúng khắp nơi tuôn đến với ông. Tuy nhiên, ông ý thức sâu xa về
sự cao vời khôn ví của Thiên Chúa. Ông công bố quyền năng vượt bậc của Đấng mà
ông có sứ mạng chuẩn bị cho việc Ngài đến khi sử dụng hình ảnh rất tương phản
để diễn tả sự bất xứng của mình như tên nô lệ trước mặt chủ, cả đến việc cúi
xuống cởi dép cho Ngài ông cũng chẳng xứng đáng nữa: “Có Đấng quyền thế hơn tôi
đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dép cho Người”.
Nhất là ông nhận biết sự khác biệt căn bản giữa phép rửa của ông
và phép rửa của Đức Giê-su: ông chỉ rửa trong nước, còn Đức Giê-su thì
rửa trong Thánh Thần. Điều làm cho Đức Giê-su trổi vượt hẳn vị Tiền Hô
của Ngài, đó là Ngài là Đấng sở hữu Thánh Thần (x. 1: 10).
Danh tiếng của Gioan Tẩy giả vào thời đó không thể nào chối cải.
Sách Công Vụ nói với chúng ta rằng, ngay cả sau khi ông đã qua đời rất lâu sau
đó, các cộng đoàn môn đệ của ông vẫn tồn tại (Cv 18: 24-25; 19: 1-7). Họ đề cao
ông là “Đấng Mê-si-a” (Ga 1: 19-34). Như thế, ngay từ trang đầu tiên Tin Mừng
của mình, thánh Mác-cô đã đặt Gioan Tẩy giả vào đúng vị thế của ông: sứ mạng
của ông chỉ là loan báo và chuẩn bị cho việc Đức Giê-su, Đấng Ki-tô, Con Thiên
Chúa, đến. Chính Đức Giê-su mới là Tin Mừng mà Gioan Tẩy Giả có sứ mạng loan báo
cho hết mọi người.
C.
KẾT LUẬN
“Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.” nghĩa
là Mác-cô khẳng định: Tin Mừng là chính Đức Kitô, Người Con của Thiên Chúa. Lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả đã mời
gọi dân Do-thái xưa hướng về Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa như sau:
“Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối
cho thẳng để Người đi.” Lời mời gọi này cũng được Giáo Hội lặp
lại cho mỗi người Ki-tô hữu hôm nay. Mong rằng mỗi người chúng ta mở lòng ra để
đáp lại lời mời gọi ấy để đón Chúa trong Đại Lễ Giáng Sinh 2014, và đón Chúa
trong ngày quang lâm của Người.
GỢI Ý ÁP DỤNG
1/ Ông Gioan sống trong sa mạc, mặc áo lông
lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Cuộc sống đơn
giản của Gioan Tẩy Giả giúp chúng ta suy nghĩ về lối sống của người môn đệ
Chúa: Chúng ta có cần lệ thuộc quá nhiều vào vật chất như cuộc sống của mỗi
người chúng ta hiện nay không?
2/ “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa
lối cho thẳng để Người đi.” Lời rao giảng này cũng đã được I-sai-a đề cập
chi tiết trong Bài đọc I Chúa Nhật II Mùa Vọng năm B:
"Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho ĐỨC CHÚA, giữa đồng
hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi
núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên
vùng đất phẳng phiu. (Is 40:3-4)
- Quanh co uốn cho ngay: cần dẹp bỏ những mưu mẹo, gian manh để
đánh lừa người khác.
- Gồ ghề san cho phẳng: cần san phẳng những ghen ghét, tị hiềm,
nói xấu, bỏ vạ, cáo gian.
- Hố sâu lấp cho đầy: cần lấp đầy những lòng tham không đáy về
những sự thế gian như tiền của, uy quyền, danh vọng, thỏa mãn xác thịt.
- Núi đồi phải bạt xuống: những kiêu ngạo khinh thường Thiên
Chúa và tha nhân phải bạt xuống; đồng thời biết khiêm nhường thực thi những lời
Chúa dạy bảo qua các ngôn sứ.
3/ “Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ
trong sông Jordan.” Một cuộc hoán cải đòi hối nhân phải nhận ra tình trạng
tội lỗi của mình và sự tốt lành của Thiên Chúa, đồng thời thành tâm thú nhận
tội lỗi trước khi xứng đáng được hưởng ơn tha thứ. Tất cả những gì được mô tả
trong trình thuật hôm nay, là căn bản cho thần học về hai Bí-tích: Rửa Tội và
Giao Hòa (hay Giải Tội). Mùa Vọng này, Ki-tô hữu chúng ta cũng được mời
gọi giao hòa với Thiên Chúa qua bí tích Giải tội, và giao hòa với tha nhân
trong cuộc sống đời thường.
LỜI CHÚA ĐỂ SUY NIỆM
1/ Trong sách ngôn sứ I-sai-a có chép rằng: Này Ta sai sứ giả
của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. (Mc 1,2)
2/ Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của
Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. (Mc 1,3)
3/ Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu
chấu và mật ong rừng. Ông rao giảng rằng: "Có Đấng quyền thế hơn tôi
đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. (Mc 1,6-7)
4/ Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người,
Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần." (Mc 1,8)
LỜI NGUYỆN
Chúa sẽ đến cứu mọi người khỏi lầm than khốn khổ. Trong niềm hân
hoan chờ đón Chúa, chúng ta tha thiết cầu nguyện:
1/ Chúa giao cho Hội Thánh sứ mạng dọn đường cho Chúa đến cứu
rỗi loài người. Xin cho các vị Mục Tử trong Hội Thánh luôn nhiệt tâm chu toàn
sứ mạng, bằng lời rao giảng và việc bác ái hằng ngày.
2/ Chúng ta đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, Chúa cũng
sai chúng ta làm sứ giả dọn đường cho Chúa. Xin cho chúng ta biết chăm lo cầu
nguyện, sống hy sinh bác ái, dọn đường cho Chúa đến với anh chị em chúng ta.
3/ Chúa đến bất ngờ như kẻ trộm. Xin cho mọi ngưòi luôn tỉnh
thức hãm mình lánh tội, để sẵn sàng đón Chúa đến cứu rỗi.
4/ Muốn dọn đường cho Chúa, phải sửa lối thẳng cho Người đi. Trong
năm Tân Phúc Âm Hóa Đời Sống Cộng Đoàn, xin cho Giáo Xứ chúng ta kiên tâm chừa
bỏ tội lỗi, lấp đầy đời sống bằng việc đạo đức hằng ngày.
Nhóm Tông Đồ Thánh Kinh
Gioa-kim Phạm Văn Lượng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét