VRNs (16.9.2014) – Sài
Gòn – Không riêng gì nước ta, mà cả trên thế giới hiện đang có nhiều loại
đặt cược khác nhau: đặt cược bóng đá, đặt cược đua ngựa. đặt cược giá vàng lên,
xuống…
Ngay cả trong thị trường
chứng khoán, nổi cộm là thị trường bất động sản cũng là những cuộc đặt cược.
Tiên đoán đúng thì thắng; tiên đoán sai thi sạt nghiệp.
Theo dõi giá vàng và giá bất
động sản trong gần một thập niện qua, ta thấy có nhiều người, nhiều công ty,
nhiều tập đoàn đã vỡ nợ, kết cục là họ phá sản, trốn chạy, ngồi tù hay tự tử …
Hình minh họa
Đó là những cuộc đặt cược về vật
chất, cùng lắm dẫn đến mất nghiệp, mất Công ty, ngồi tù. Ở đây, tôi giới thiệu
đến độc giả một cuộc đặt cược mất cả cuộc sống hạnh phúc đời nay, và cả cuộc sống
đời đời mai sau, nếu ta đặt cược sai cho mình.
Câu chuyện đặt cược này đã
được Blaise Pascal (1623-1662), nhà toán học cũng là nhà triết học lừng danh ở
thế kỷ XVII người Pháp đưa ra:
Phỏng theo nội dung câu
chuyện đặt cược của Pascal
Có hai người tạm đặt tên là anh
“A” và anh “B”.
Anh “A” tin có Thiên Chúa, tin
có đời sau.
Anh “A” luôn cố gắng giữ và sống
những điều Chúa dạy: Tôn thờ Thiên Chúa, anh dự lễ ngày Chúa nhật… và yêu mến
anh em hết lòng, hay giúp đỡ những người nghèo khó. Anh sống công bằng và bác
ái… Khi lỗi phạm anh tìm cách thống hối ăn năn… Nhờ thế, gia đình anh hạnh
phúc, anh được bà con trân trọng, quí mến.
Và đặc biệt anh được bình an
trong tâm hồn.
Anh “B” không tin có Thiên
Chúa, không tin có đời sau.
Anh “B” thường sống buông thả,
giả hình. Anh vi phạm lỗi công bằng. Anh cố che đạy những điều sai quấy, miễn
sao pháp luật không biết là được, vì anh chỉ sợ pháp luật. Kết quả gia đình mất
hạnh phúc; dân làng chê bai; mọi người chỉ sợ anh chứ không trọng anh! Anh
không có sự bình an thực sự trong tâm hồn.
Pascal đưa ra hai giả thuyết
về Thiên Chúa và đời sau:
Giả thuyết thứ nhất: Không có
Thiên chúa cũng không có đời sau.
Nếu không có Thiên Chúa và đời
sau thì ngay ở đời này anh “A” đã hơn anh “B” là gia đình hạnh phúc, mọi người
quí mến. Anh “A” được bình an trong tâm hồn.
Còn anh “B”gia đình mất hạnh
phúc, dân làng chê cười. Anh không có bình an trong tâm hồn. Còn sau khi chết cả
anh “A” và “B” huề nhau.
Giả thuyết thứ hai: Có
Thiên Chúa và có đời sau:
Có Thiên Chúa và có đời sau thì
anh “A” được hưởng trọn ven; trong lúc anh “B” mất trắng không được gì.
Pascal kết luận: Khi ta
tin vào Thiên Chúa và sự sống đời sau ta được cả đời nay lẫn đời sau, chỉ chịu
thiệt đôi chút về chức quyền, danh vọng.
Nếu ta không tin vào Thiên Chúa
ta mất cả đời này lẫn đời sau.
Như thế, người tin vào Thiên
Chúa và sự sống đời sau là người khôn ngoan; người không tin vào Thiên Chúa là
những người vô cùng dại dột.
Đức tin không phải là chuyện
đặt cược.
Người Công giáo tin vào
Thiên Chúa, tin vào sự sống đời sau không phải là một cuộc đặt cược may rủi như
những cuộc đặt cược ta thường thấy, mà là sự xác tin, xác tín một cách mạnh mẽ.
Họ sẵn sàng anh dũng hiên ngang lấy mạng sống mình để bảo vệ Đức Tin. Lịch sử
nhân loại cũng như lịch sử Việt Nam đã minh chứng điều đó.
Người Công giáo dựa vào lý trí
Chúa đã ban cho, và nhờ lý trí nhận biết Thiên Chúa, nhận biết đời sống vĩnh hằng
qua: lý chứng, nhân chứng, sự mạc khải
Lý chứng:
Câu kinh bản tôi được học khi
xưng tội lần đầu cách đây đã hơn nửa thế kỷ vẫn còn vang vọng, làm tôi say mê
mãi cho đến nay. Hỏi: “làm sao biết có Đức Chúa Trời?”. Thưa: “Hãy nhìn xem trật
tự lạ lùng của trời đất bèn nhận ra Đức Chúa Trời”.
Từ ngày đó đến nay, càng nghiền
ngẫm, suy nghĩ, học hỏi, trao đổi tôi càng thấy câu kinh bản đó sao mà hay thế!
sâu sắc thế! sao mà tóm lược gọn gàng thế!!
Sách Giáo lý của Hội Thánh
Công Giáo ngày nay thì dạy: “Những “con đường” để đến với Thiên Chúa như thể có
khởi điểm là các thụ tạo: Thế giới vật chất và con người.” (SGLCHTG, 31)
Thế kỷ XXI, thế kỷ của
khoa học hiện đại. Nhưng thử hỏi các nhà khoa học đã biết được bao nhiêu “Trật
tự lạ lùng” vô biên của trời đất này. Sự hiểu biết của nhân loại trước “Thế
giơí vật chất và con người” ví như hạt cát trong sa mạc; giọt nước giữa đại
dương; như chiếc lá trong rừng cây. Nói như thế không có nghĩa là tôi không
trân trọng những thành tựu lớn lao của khoa học.
Xin đan cử một thí dụ:
Tiến sỹ Francis. Collins,
người Mỹ, Giám đốc Dự án Giải mã Gen người, đang từ nhà khoa học vô thần đã trở
thành hữu thần tin thờ Thiên Chúa, khi khám phá ra trong máu của con người có 3
tỉ 100 triệu mẫu cặp hệ thống gen, mật mã của sự sống, xác định trình tự ADN,
sau hơn 10 năm nhóm của ông nghiên cứu.
Tháng 6 năm 2000, bộ giải
mã gen người này được công bố tại căn phòng phía Đông của Nhà Trắng Hoa Kỳ. Tổng
thống Bill Clinton đã nói: “Ngày hôm nay, chúng ta được hiểu về loại ngôn ngữ
mà Chúa đã sử dụng để sáng tạo nên sự sống. Hơn bao giờ hết, chúng ta nghiêng
mình trước sự phước tạp, trước vẻ đẹp và sự diêụ kỳ của món quà thần thánh nhất,
thiêng liêng nhất của Người”. (Ngôn ngữ của Chúa, những bằng chứng khoa học về
Đức Tin. Nhà xuất bản Lao Động)
Thế kỷ thứ XIII Thánh Toma
(1225-1274) Tiến sỹ Thần học nổi tiếng thời trung cổ viết ra 5 lý chứng: Sự
chuyển vận của vũ trụ; luật nhân quả; sắp xếp trật tự; bặc thang giá trị nơi vạn
vật; cứu cánh của vạn vật, để chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa.
Lý chứng vững vàng nhất,
hùng hồn nhất vượt không gian và thời gian giúp nhân loại nhận ra Thiên Chúa và
sự sống đời sau không gì hơn toàn bộ Kinh thánh Tân và Cựu ước bao gồm 73 cuốn
(46 cuốn cựu ước, 27 cuốn Tân Ước). Đây là lời mạc khải của Thiên Chúa cho nhân
loại. Đây cũng là bộ sách giá trị nhất, lâu đời nhất, in nhiều nhất, bán chạy
nhất, dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới cho đến ngày nay.
Nhân chứng
Dòng lịch sử cứu độ của Thiên
Chúa cho nhân loại gồm hai giai đoạn:
Thời Cựu ước kể từ khi có loài
người đến Chúa xuống thế làm người.
ThờiTân ước từ khi Chúa giáng trần
đến nay.
Abraham, thời cựu ước, đã
dạy cho nhân loại biết vâng phục, phó thác trọn vẹn đời mình cho Chúa. Ông sẵn
sàng sát tế đứa con duy nhất Ixaác làm của lễ dâng lên Chúa… Vua Davit thì thức
tỉnh nhân loại đừng ngả lòng, dù tội lỗi đến đâu mã trông cậy vào Chúa, sám hối
ăn năn sẽ được Chúa thứ tha…
Chúa truyền Mười Điều Răn cho
nhân loại giữ qua tổ phụ Mô-sê….
Thời Tân ước: Các Thánh
tông đồ thời Chúa Giêsu, các Thánh tử đạo, Các Thánh nam nữ ở trên trời và biết
bao người sả thân vì đạo Chúa để loan báo Tin Mừng.
Các tiên tri, các ngôn sứ,
tổ phụ của loài người, Chúa cho hiện diện trong mỗi giai đoạn lịch sử cứu chuộc
của Chúa, để minh chứng Chúa yêu thương con người vô biên, và hứa sẽ ban hạnh
phúc đời sau cho những ai tôn thờ và giữ các giới răn của Người.
Mạc khải
Mạc là bức màn; khải là hé mở. Mạc
khải là hé mở bức màn. Thiên Chúa là Đấng toàn năng, nhiệm mầu vì yêu thương muốn
cho con người được biệt Thiên Chúa là Đấng tự hữu, toàn năng, Đấng tạo ra trời
đất muôn loài. Đồng thời muốn cho con người được chia sẻ niềm hạnh phúc vĩnh hằng
cùng người mai sau. Chính vì thế, Thiên Chúa đã mạc khải cho con người biết những
điều đó, mà riêng với khả năng con người thì không thể nào biết được. Mạc khải
được lưu truyền qua Thánh Kinh và Thánh truyền cho đến ngày cánh chung.
Kết luận
Chúa Giêsu chính là lý chứng,
nhân chứng, sự mạc khải, phép lạ trung tâm trong lịch sử cứu độ của nhân loại.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, đã xuống thế làm người mang hai bản tính, Người đã chịu
chết và đã phục sinh. Đó chính là lý chứng, chứng nhân, mạc khải, phép lạ vĩ đại
nhất trong lịch sử cứu độ của Thiên chúa. Đó cũng chính là niềm tin vững vàng
không gì thay đổi, niềm hy vọng, nỗi khát khao chờ mong của Người Công giáo vào
sự sống đời sau, vào một Thiên Chúa tự hữu đầy lòng yêu thương, nhiệm mầu vô
biên, quền năng tuyệt đối trên muôn loài.
Lạy Chúa chúng con tin,
nhưng xin nâng đỡ Đức Tin còn non yếu của chúng con.
Inhaxiô
Đặng Phúc Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét