Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2014
Chúa Giêsu lên trời.
Chúa Nhật Lễ Thăng Thiên A
Chi tiết
Viết bởi LM. Anthony Đinh Minh
Tiên, OP
Bài đọc: I & II (chung cho
ABC). Acts 1:1-11; Eph 1:17-23; Mt 28:16-20.
1/ Bài đọc I: 1 Thưa ngài
Thê-ô-phi-lô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức
Giê-su làm và những điều Người dạy, kể từ đầu 2 cho tới ngày Người được rước
lên trời. Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ
Thánh Thần.
3 Người lại còn dùng nhiều cách
để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong
bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa.
4 Một hôm, đang khi dùng bữa với
các Tông Đồ, Đức Giê-su truyền cho các ông không được rời khỏi Giê-ru-sa-lem,
nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, "điều mà anh em đã nghe
Thầy nói tới, 5 đó là: ông Gio-an thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì
trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần." 6 Bấy giờ những người
đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy
khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?"
7 Người đáp: "Anh em không
cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt,
8 nhưng anh em sẽ nhận được sức
mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng
nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến
tận cùng trái đất." 9 Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông,
và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. 10 Và
đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người
đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh
11 và nói: "Hỡi những người
Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được
rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời."
2/ Bài đọc II: 17 Tôi cầu xin
Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho
anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người.
18 Xin Người soi lòng mở trí cho
anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi,
đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh,
19 đâu là quyền lực vô cùng lớn
lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó chính là sức mạnh toàn
năng đầy hiệu lực, 20 mà Người đã biểu dương nơi Đức Ki-tô, khi làm cho Đức
Ki-tô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. 21 Như vậy, Người
đã tôn Đức Ki-tô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có
được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. 22
Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Ki-tô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội
Thánh; 23 mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng
làm cho tất cả được viên mãn.
3/ Phúc Âm: 16 Mười một môn đệ
đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến.
17 Khi thấy Người, các ông bái lạy,
nhưng có mấy ông lại hoài nghi.
18 Đức Giê-su đến gần, nói với
các ông: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.
19 Vậy anh em hãy đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần,
20 dạy bảo họ tuân giữ mọi điều
Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế."
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu
lên trời.
Hai điều chính chúng ta cần
tìm hiểu trong ngày lễ Chúa lên trời:
(1) Hiểu làm sao về biến cố Chúa
thăng thiên: Phải chăng khi Chúa Giêsu lên trời là Ngài sẽ sống cách biệt chúng
ta? Phải chăng Chúa Giêsu mang thân xác con người về Trời? Đâu là Thiên Đàng?
Chúng ta sẽ hưởng những quyền lợi gì trên Thiên Đàng?
(2) Sự quan trọng của việc rao
giảng Tin Mừng: Tại sao Chúa trao cho các Tông-đồ và Hội Thánh sứ vụ mang ơn cứu
độ cho muôn người qua việc rao giảng Tin Mừng?
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh
biến cố Chúa lên trời và sứ vụ Ngài trao cho các môn đệ. Trong Bài Đọc I, Thánh
Lucas tường thuật hai biến cố: Chúa lên trời và sứ vụ Ngài trao cho các môn đệ
phải ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô cầu
nguyện để các tín hữu có thần trí khôn ngoan để hiểu Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên
Chúa, được thực hiện qua Đức Kitô. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu truyền cho các môn
đệ phải rao giảng Tin Mừng, và Ngài ban quyền cần thiết để người khác tin vào lời
các ông rao giảng.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Anh em sẽ là chứng
nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất.
1.1/ Chúa Giêsu củng cố niềm tin
cho các môn đệ trong suốt 40 ngày sau khi sống lại: Dựa theo Luca 1:1-4 và
trình thuật hôm nay: "Thưa ngài Thêôphilê, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường
thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới
ngày Người được rước lên trời," chúng ta có bằng chứng để kết luận Thánh
Luca là tác giả của Tin Mừng thứ ba và Sách CVTĐ. Trước ngày lên trời, Người đã
dạy dỗ các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Sau khi sống lại, Người
đã hiện ra nhiều lần trong bốn mươi ngày, để chứng tỏ cho các ông thấy là Người
vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình, và nói chuyện với các ông về Nước Thiên
Chúa.
1.2/ Chúa Giêsu nhắc lại lời hứa
ban Thánh Thần: Trong những lời từ biệt của Chúa Giêsu trước Cuộc Thương Khó của
Tin Mừng Gioan, Ngài đã hứa sẽ xin Chúa Cha để gởi đến cho các Tông-đồ Thánh Thần
để ở với và hoạt động trong các ông (Jn 15 và 16). Trình thuật hôm nay nhắc lại
lời hứa đó và nhắc nhở các Tông-đồ phải ở lại Jerusalem để lãnh nhận Thánh Thần:
"Điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng
nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần."
Phép Rửa của Gioan Tẩy Giả là
Phép Rửa bằng nước để tha tội khi con người tỏ lòng ăn năn sám hối và quay về với
Thiên Chúa. Các Tông-đồ là những người Do-thái, nên các ông có lẽ đã lãnh nhận
Phép Rửa bằng nước, như Gioan Tẩy Giả đã từng làm (Jn 1:26); nhưng có một Phép
Rửa để thánh hóa con người bằng Thánh Thần mà Gioan Tẩy Giả đã đề cập đến mà
chính Chúa Giêsu đã lãnh nhận (Jn 1:32-33). Các Tông-đồ lãnh nhận Phép Rửa này
trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Acts 2:1-4).
Các môn đệ hiểu lầm những lời
Chúa nói nên hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi
phục vương quốc Israel không?" Họ vẫn nghĩ đến một Đấng Thiên Sai uy quyền,
cho dẫu Chúa Giêsu đã phải trải qua Cuộc Thương Khó, cái chết, và sự Phục Sinh
vinh hiển của Ngài. Họ nghĩ, Chúa đã phục sinh, thì giờ là lúc Ngài khôi phục
vương quốc Israel bằng cách gởi Thánh Thần xuống làm cho họ trở thành những người
thống trị cùng với Đức Kitô! Nhưng Chúa Giêsu giải thích cho họ biết mục đích của
việc lãnh nhận Thánh Thần là để họ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Ngài tại
Jerusalem, trong khắp các miền Judah, Samaria và cho đến tận cùng trái đất, để
con người tin và được cứu độ. Còn khi nào Ngài sẽ khôi phục vương quốc Nước Trời
là nằm trong quyền lực và kỳ hạn mà Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt. Điều này
cũng tùy thuộc vào việc cộng tác của con người làm cho Nước Chúa mau trị đến, bằng
việc làm cho mọi người nhận biết Chúa.
1.3/ Chúa Giêsu lên trời:
"Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện
lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa." Phúc Âm theo Luca cũng
đề cập tới việc Chúa lên trời trong những câu sau cùng (Lk 24:50-51) và phản ứng
vui mừng của các Tông-đồ (Lk 24:52-53). Làm sao chúng ta hiểu được ý nghĩa của
việc Chúa Giêsu lên trời?
(1) Trong ngày lên trời, Chúa
Giêsu chính thức từ bỏ thân xác con người (nhân tính), để chỉ còn lại thiên
tính và ngự bên hữu Thiên Chúa để cầu bầu cho con người. Nói cách khác, Chúa
Giêsu giũ bỏ nhân tính để chỉ còn lại thiên tính; không còn là người mang hai bản
tính, nhưng hoàn toàn là Thiên Chúa. Nhưng Chúa Giêsu phải cho các môn đệ một dấu
chỉ để biết Ngài trở về với Chúa Cha, và không có dấu chỉ nào giúp các ông dễ
nhận hơn theo truyền thống là lên trời.
(2) Chúa Giêsu lên trời không có
nghĩa là từ nay, Ngài sẽ cách biệt các môn đệ, nhưng có nghĩa Ngài không lệ thuộc
vào giới hạn của thân xác về thời gian và không gian. Ngài luôn luôn hiện hữu ở
mọi nơi và mọi thời với con người: tại Mỹ cũng như tại Việt-nam; trong bí-tích
Thánh Thể cũng như khi cầu nguyện. Hơn nữa Ba Ngôi Thiên Chúa không bao giờ
tách biệt nhau, cho dù giai đọan hiện tại là giai đoạn hoạt động của Thánh Thần;
nhưng ai có Thánh Thần, người ấy cũng có cả Ba Ngôi Thiên Chúa.
(3) Theo ĐGH Gioan Phaolô II,
Thiên Đàng không phải là một nơi ẩn giấu đàng sau bầu trời, nhưng là một trạng
thái vinh quang và vĩnh cửu, do sự kết hiệp hoàn toàn giữa con người với Thiên
Chúa. Nếu hiểu như thế, Thiên Đàng đã bắt đầu ngay từ đời này, nhưng chưa đạt tới
mức hoàn hảo như ở đời sau, khi con người được chiêm ngưỡng Thiên Chúa như Chúa
là.
(4) Chúa Giêsu từ trời sẽ trở lại
lần thứ hai để phán xét kẻ sống cũng như người chết: Đang lúc các ông còn đăm
đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng
bên cạnh và nói: "Hỡi những người Galilee, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức
Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các
ông đã thấy Người lên trời."
2/ Bài đọc II: Phaolô xin Thánh
Thần cho các tín hữu để hiểu biết những điều quan trọng.
2.1/ Mặc khải quan trọng nhất của
Thiên Chúa: là Kế Họach Cứu Độ con người, được thực hiện qua Đức Kitô. Con người
phạm tội và hậu quả của tội là sự chết. Để cứu con người khỏi chết và phục hồi
sự sống, Chúa ban cho con người Đức Kitô. Nhờ cái chết và sự phục sinh của Đức
Kitô, con người tìm được niềm hy vọng được sống muôn đời với Thiên Chúa. Tác giả
Thư Ephesô diễn tả những điều này như sau: "Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển
là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn
ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh
em để thấy rõ:
(1) "đâu là niềm hy vọng nhờ
Người kêu gọi anh em": Niềm hy vọng đây chính là hy vọng vào cuộc sống
vĩnh cửu đã đạt được qua Đức Kitô. Nếu chúng ta tin vào Đức Kitô, chúng ta cũng
sẽ được sống muôn đời với Thiên Chúa. Ngài không ngừng kêu gọi và tạo cơ hội
cho con người biết Đức Kitô.
(2) "đâu là sự sung mãn của
gia nghiệp vinh quang của Người giữa các thánh": Gia nghiệp vinh quang của
Thiên Chúa chính là ơn cứu độ mà Đức Kitô đã chiến thắng cho con người. Các
thánh là những người đã được hưởng ơn cứu độ. Họ là những chứng nhân của niềm
hy vọng của chúng ta.
(3) "đâu là quyền lực vô
cùng lớn lao Người đã làm cho chúng ta là những tín hữu, theo như uy quyền vô
biên của quyền năng Người, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức
Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời." Nhờ Đức
Kitô, Thiên Chúa đã chiến thắng mọi quyền lực của ma quỉ, tiêu diệt sự chết, và
mang lại sự sống vĩnh cửu cho con người.
2.2/ Sức mạnh của Thiên Chúa được
biểu dương nơi Đức Kitô:
(1) Đức Kitô là sự khôn ngoan và
sức mạnh của Thiên Chúa: "Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền
lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện
tại, mà cả trong thế giới tương lai." Thư Philiphê cũng diễn tả các tương
tự về uy quyền và danh xưng Giêsu (Phi 2:10-11).
(2) Đức Kitô thiết lập Hội Thánh
để tiếp tục thi hành sứ vụ cứu độ của Ngài trong trần gian: "Thiên Chúa đã
đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội
Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được
viên mãn."
Đức Kitô cần Hội Thánh để loan
truyền ơn cứu độ của Ngài cho mọi người.
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu hứa với
các môn đệ ba điều quan trọng trước khi Ngài lên trời.
(1) Ngài bảo đảm với các ông về
uy quyền của Ngài: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.” Chúa
Cha đã trao phó tất cả quyền năng trên trời cũng như dưới đất trong tay Chúa
Con; vì thế, các tông-đồ được Chúa Giêsu bảo đảm các ông sẽ không bị khuất phục
bởi bất cứ một quyền lực nào của thế gian cũng như của ma quỉ, bao lâu Chúa
Giêsu ở với các ông.
(2) Ngài trao sứ vụ rao giảng
Tin Mừng cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,
làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ
tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” Tin Mừng Cứu Độ đã được chiến thắng
bởi Chúa Giêsu; từ đây các môn đệ cần mang Tin Mừng này cho hết mọi người. Hai
điều kiện để một người được hưởng Tin Mừng Cứu Độ là chịu Phép Rửa nhân danh Ba
Ngôi Thiên Chúa và giữ cẩn thận các điều Chúa Giêsu đã truyền. Các môn đệ chịu
trách nhiệm rao giảng để mang niềm tin và nuôi dưỡng đức tin bằng những lệnh
truyền của Chúa Giêsu.
(3) Ngài cam kết sẽ luôn ở với
các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." Chúa lên trời
không có nghĩa là Ngài sẽ sống xa cách các môn đệ, như khi một người từ giã cuộc
đời; nhưng vì Chúa có uy quyền để từ nay tuy các ông không còn xem thấy Ngài
cách hữu hình, nhưng các ông sẽ cảm thấy sự hiện diện thực sự của Ngài qua
bí-tích Thánh Thể và sự hoạt động của Chúa Thánh Thần. Sự hiện diện bên trong
cao trọng hơn sự hiện diện trong thân xác, và có sức mạnh để biến đổi các môn đệ
từ người ít học, yếu đuối, sợ sệt, thành những chứng nhân hiểu biết, can đảm,
và sẵn sàng làm chứng cho Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Giêsu là Đầu đã lên trời,
chúng ta là những chi thể của một thân thể của Ngài là Hội Thánh, cũng sẽ được
lên theo. Đó là niềm hy vọng chắc chắn của chúng ta.
- Chúa Giêsu tin tưởng chúng ta
sẽ không quên sứ vụ Ngài trao phó là sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Chúng ta phải
làm hết cách để cho mọi người biết và tin vào Ngài; đồng thời chúng ta cũng phải
đào tạo các thợ nhiệt thành để tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho thế hệ
tương lai.
- Chúa Giêsu về trời không có
nghĩa là Ngài vắng mặt trong cuộc đời; nhưng một khi Ngài không còn lệ thuộc
vào giới hạn của thân xác, Ngài sẽ hiện diện với mọi người ở mọi nơi và trong mọi
lúc.
Được chúc phúc
"Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.(Lc 1,42)
Chúa hạ bệ người quyền thế và nâng cao kẻ khiêm nhường.
Lễ Mẹ đi thăm viếng
Chi tiết
Viết bởi LM. Anthony Đinh Minh
Tiên, OP
Bài đọc: Sop 3:14-18a (Rom
12:9-16); Lk 1:39-56.
1/ Bài đọc I: 14 Reo vui lên, hỡi
thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi.
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi.
15 Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa
đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa.
Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa.
Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ.
Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa.
Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ.
16 Ngày ấy, người ta sẽ bảo
Giê-ru-sa-lem: "Này Xi-on, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời."
17 Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng.
Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi.
Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng 18 như trong ngày lễ hội.
Những kẻ tản lạc được hồi hương Ta đã cất khỏi ngươi tai hoạ
khiến ngươi không còn phải ô nhục nữa.
Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi.
Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng 18 như trong ngày lễ hội.
Những kẻ tản lạc được hồi hương Ta đã cất khỏi ngươi tai hoạ
khiến ngươi không còn phải ô nhục nữa.
2/ Phúc Âm: 39 Hồi ấy, bà
Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. 40
Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét.
41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng
bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần,
42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ,
và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. 43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu
Chúa tôi đến với tôi thế này? 44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào,
thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. 45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."
46 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói:
"Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, 47 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. 48 Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
"Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, 47 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. 48 Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!
danh Người thật chí thánh chí tôn!
50 Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng
thương xót những ai kính sợ Người.
51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy
dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ
của Người, 55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời."
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời."
56 Bà Ma-ri-a ở lại với bà
Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa hạ bệ
người quyền thế và nâng cao kẻ khiêm nhường.
Luôn luôn có một sự tương phản
giữa con người và Thiên Chúa: Con người yêu thích quyền cao, chức trọng; Thiên
Chúa yêu mến kẻ hèn kém, khiêm nhường. Con người thích được mọi người phục vụ;
Thiên Chúa yêu mến kẻ phục vụ mọi người. Con người trốn tránh đau khổ; Thiên
Chúa yêu mến những người đau khổ... Một cách cụ thể, Thiên Chúa chọn cha sở xứ
Ars, một người ít học, quê mùa làm quan thầy hàng giáo sĩ; Ngài chọn Mẹ Têrêxa
phục vụ kẻ nghèo để đưa bao nhiêu người vào Giáo Hội. Ngài chọn một y tá
Martinô để chữa bệnh biết bao người, ngay cả tại Việt Nam.
Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật
công trình kỳ diệu của Thiên Chúa nơi những người vâng phục nghèo hèn. Trong
bài đọc I, ngôn sứ Sophonia tiên báo Chúa sẽ đưa con cái Israel và Judah còn lại
từ khắp nơi trở về để xây dựng lại quê hương và Đền Thờ trong vui mừng, giữa
lúc không còn tia hy vọng nào nữa. Trong Phúc Âm, bà Elisabeth nhận ra ngay lý
do Maria được tôn phong làm Mẹ Thiên Chúa vì Maria tin những gì Chúa phán sẽ được
thực hiện. Mẹ Maria cũng nhận ra quyền năng của Thiên Chúa thực hiện nơi Mẹ, một
thôn nữ nghèo hèn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Án lệnh phạt
ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa.
1.1/ Bất tuân lệnh Thiên Chúa là
lý do của hai cuộc lưu đày: Hai lý do khơi dậy sự tức giận của Thiên Chúa khiến
Ngài để mặc dân Do-thái cho kẻ thù phương Bắc Assyria và Babylon giày xéo và
mang đi lưu đày:
(1) Rời bỏ Thiên Chúa để chạy
theo các thần ngoại bang: Khi con người trở nên giàu có, họ có khuynh hướng xa
lìa Thiên Chúa như câu tục ngữ Việt Nam “no cơm rửng mỡ.” Đọc các Sách Ngôn Sứ,
chúng ta thấy Thiên Chúa không ngừng gởi các ngôn sứ tới để kêu gọi dân ăn năn
trở lại; nhưng họ đã không thèm nghe, lại còn bắt bớ, xỉ nhục và bỏ tù nữa.
(2) Sống bất công với người
nghèo khổ: Lý do chính con người trở nên giàu có không phải vì chăm chỉ làm ăn,
mà là đối xử bất công với người nghèo khổ. Những kẻ quyền thế lợi dụng quyền
hành để chiếm đất đai của dân nghèo hay trả lương không đủ để họ có thể sống.
Khi tiếng dân nghèo kêu kên Thiên Chúa, Ngài sẽ lắng nghe họ.
1.2/ Tin tưởng nơi tình thương
Thiên Chúa: Thiên Chúa phải ra tay sửa phạt dân không phải vì Ngài ghét bỏ họ;
nhưng để họ nhận ra những lỗi lầm mà ăn năn trở lại. Trong khi dân chúng phải sống
cực khổ nơi lưu đày, Thiên Chúa vẫn không ngừng gởi các ngôn sứ tới để cung cấp
niềm hy vọng cho dân: Nếu họ biết ăn năn trở lại, Ngài sẽ ra tay cứu thoát họ.
Tiên tri Sophonia là một trong
các tiên tri sống trong nơi lưu đày với dân. Sứ điệp của tiên tri gởi đến cho
dân là “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi!
Hỡi thiếu nữ Jerusalem, hãy nức lòng phấn khởi. Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa.”
Hỡi thiếu nữ Jerusalem, hãy nức lòng phấn khởi. Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa.”
Nhiều người sẽ nản lòng và không
tin, nếu họ nghĩ xưa kia còn vua và binh lính mà còn chưa giữ được quốc gia;
phương chi bây giờ phải chịu khốn khổ nơi lưu đày, lấy binh lính và khí giói
đâu mà chống lại quân thù? Những người hiểu như thế là chưa biết uy quyền và sự
quan phòng của Thiên Chúa. Lịch sử chứng minh Thiên Chúa đưa dân về mà không cần
đến lực lượng quân sự. Ngài thay dạ đổi lòng vua Dân Ngoại Persia để vua này
không những ra chiếu chỉ cho dân hồi hương mà còn cấp tiền của để dân kiến thiết
lại xứ sở và Đền Thờ.
2/ Phúc Âm: Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?
2/ Phúc Âm: Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?
2.1/ Elisabeth nhận ra chức vụ
“Mẹ Thiên Chúa” của Maria: Có hai điều kỳ lạ xảy ra cho Elisabeth trong cuộc gặp
gỡ này.
+ Điều lạ thứ nhất: Maria chưa hề
hé môi nói cho Elisabeth biết những gì Thiên Chúa sẽ thực hiện nơi mình; nhưng
chỉ cần sự hiện diện của Maria, Elisabeth đã biết tất cả. Bà biết là do sự hiện
diện của Thánh Thần bao trùm cả hai mẹ con như lời bà thú nhận: “vừa nghe tiếng
bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên vui sướng, và bà được đầy tràn
Thánh Thần.” Ngài là Thần Chân Lý, vì thế, không lạ gì Elisabeth biết: "Em
được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được
chúc phúc.”
+ Điều lạ thứ hai: Elisabeth biết
rõ Maria được Thiên Chúa tôn phong là thân mẫu của Chúa Giêsu vì Maria “tin Lời
Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện.”
2.2/ Maria nhận ra ý thích và
quyền năng thực hiện của Thiên Chúa.
Nhiều học giả cho bài ngợi ca
“Magnigicat” không phải của thánh sử Lucas, cũng không phải của Maria; nhưng đã
có trong truyền thống và được đặt vào đây để nói lên tâm trạng biết ơn của
Maria dành cho Thiên Chúa. Điều này cũng dễ hiểu, vì các tín hữu thường thuộc
lòng những bài ca quen thuộc và hát lên để tạ ơn Thiên Chúa khi cơ hội tới như
bài “Tán tụng hồng ân” mà nhiều người chúng ta hát trong các dịp để tạ ơn. Tuy
nhiên, chúng ta đừng đánh giá thấp sự linh hứng của Thánh Thần trong Mẹ Maria,
Ngài có thể giúp Mẹ làm chuyện này.
Hai điều quan trọng chúng ta học
được trong bài “Ngợi Ca” hôm nay:
(1) Chúa yêu thích kẻ khiêm nhường
và ghét người kiêu căng: Trước tiên, Mẹ nhận ra những điều Chúa làm cho Mẹ là
hoàn toàn do ý định và uy quyền của Ngài. Mẹ chỉ là phận nữ tỳ hèn mọn, không
đáng nhận những ơn lành này. Mẹ ngợi ca tình yêu của Thiên Chúa và ước mong cho
mọi người biết những việc Ngài làm.
Tại sao Thiên Chúa không thích
người kiêu căng? Thứ nhất, người kiêu căng ăn cắp công ơn của Thiên Chúa đã làm
cho họ. Hiểu cho tới ngọn nguồn, chẳng có sự gì con người có được mà không đến
từ Thiên Chúa: quyền thế, danh vọng, của cải, tài năng, thời gian... Thứ hai,
kiêu căng làm con người kiêu căng nghĩ mình không cần Thiên Chúa. Nếu họ nghĩ
mình có thể làm mọi sự, họ sẽ không cần chạy đến với Ngài. Sau cùng, kiêu căng
làm con người khinh thường tha nhân, vì không được như họ.
(2) Chúa trông đến kẻ khó nghèo:
“Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.” Đây
cũng là phúc đầu tiên trong Bát Phúc. Khó nghèo không chỉ hiểu là nghèo khó về
phương diện vật chất, nhưng giầu có khó vào Nước Trời vì nó làm cho con người
xa Thiên Chúa, như trường hợp của chàng thanh niên giàu có. Nghèo khó hiểu cho
đúng phải bao gồm mọi khía cạnh của đời sống. Con người phải ý thức mình cần
Thiên Chúa trong mọi sự và không thể sống thiếu ơn lành của Thiên Chúa: sự hiện
hữu, tình yêu, sự thật, ơn thánh...
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tin tưởng và
tuân giữ những gì Thiên Chúa truyền nếu muốn được Thiên Chúa bảo vệ và chúc
lành. Cãi lệnh Thiên Chúa chỉ chuốc lấy thiệt hại vào thân.
- Làm theo thánh ý Thiên Chúa là
điều kiện để được Ngài chúc phúc. Chúng ta đừng kiêu căng đánh cắp công ơn của
Ngài đã đổ xuống trên chúng ta.
Anh em sẽ vui mừng
Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được.(Ga 16,22)
Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2014
CÁI GIÁ CỦA SỰ TỨC GIẬN
Một bà cụ có tính tình cau có,
thường xuyên nổi giận vì những sự việc nhỏ nhặt, hơn nữa, mỗi khi tức giận hay
dùng lời lẽ ác độc, vô tình đã làm tổn thương nhiều người, vì thế bà ta giao tiếp
với hàng xóm bạn bè đều không được hài hòa.
Bà ta cũng biết khuyết điểm của
mình, mong muốn sửa lại lỗi lầm thành tật này. Nhưng mỗi khi tức lên thì chính
bà ta cũng không thể khống chế được tâm mình.
Một hôm, một người đã nói với bà
: “Chùa gần đây có một vị thiền sư, cũng là vị cao tăng, tại sao bà không đến
xin lời chỉ dạy, biết đâu thiền sư có thể giúp được cho bà.”
Bà ta cũng cảm thấy có lý, đã đến
tham vấn với thiền sư.
Khi bà ta thổ lộ tâm trạng của
mình, bà ta có thái độ rất thành khẩn, rất mong muốn có được một vài lời khai
thị từ vị thiền sư đó. Vị thiền sư im lặng nghe bà kể lể, chờ cho bà ấy nói hết,
mới dẫn bà ta vào một thiền phòng, sau đó khóa cửa thiền phòng và rời khỏi đó.
Bà ta một lòng muốn có được lời
chỉ dạy của thiền sư, nhưng không ngờ thiền sư đã nhốt bà ta vào trong một thiền
phòng vừa lạnh vừa u tối. Bà ta tức tối hét lên, cũng như ngày thường, bà ta
buông những lời nhục mạ quái ác. Nhưng cho dù bà ta có la hét cách nào, nhưng ở
ngoài vẫn im lặng, thiền sư hình như không nghe thấy lời nào.
Khi không còn chịu đựng được nữa,
thì bà ta thay đổi thái độ cầu xin thiền sư thả mình ra, nhưng thiền sư vẫn
không động lòng thay đổi cách hành xử của mình, vẫn mặc kệ bà ta tiếp tục nói
gì thì nói.
Qua một hồi rất lâu, cuối cùng
trong thiền phòng cũng không còn tiếng la hét hay nói năng của bà ta nữa, thì
lúc này, phía ngoài thiền phòng mới có tiếng nói của thiền sư hỏi : “Bà còn giận
không ?”
Thế là bà ta giận dữ trả lời :
“Tôi chỉ giận tôi, tôi hối hận sao phải nghe lời người khác, tìm đến cái nơi quỷ
quái này để xin ý kiến của ngươi.”
Thiền sư ôn tồn nói : “Kể cả
chính mình bà cũng không chịu buông tha, thì bà làm sao có thể tha lỗi cho người
khác chứ ?” Nói xong thiền sư lại im lặng.
Sau một thời gian im lặng, thiền
sư lại hỏi : “Bà còn giận không ?”
Bà ta trả lời : “Hết giận rồi !”
“Tại sao hết giận !”
“Tôi giận thì có ích gì ? không
phải vẫn bị ông nhốt tôi trong cái phòng vừa u tối vừa lạnh lẽo này hay sao ?”
Thiền sư nói với vẻ lo lắng :
“Bà xử sự kiểu này càng đáng sợ hơn đấy, bà đã đè nén cơn tức giận của mình vào
một chỗ, một khi nó bộc phát ra thì càng mãnh liệt hơn.” Nói xong, thiền sư lại
quay đi.
Lần thứ 3 thiền sư quay lại hỏi
bà ta, bà ta trả lời : “Tôi không giận nữa, ông không xứng đáng để tôi giận !”
Thiền sư nói : “Cái gốc tức giận
của bà vẫn còn, bà cần phải thoáng ra khỏi vòng xoáy của tức giận trước đã.”
Sau một hồi lâu, bà ta đã chủ động
hỏi thiền sư : “Bạch thiền sư, ngài có thể nói cho con biết tức giận là cái gì
không ?”
Thiền sư bước vào, vẫn không nói
chuyện, chỉ có động tác như vô tình đổ đi ly nước trong cái ly trên tay.
Lúc này thì bà ta hình như đã hiểu.
Thì ra mình không bực tức, thì
làm gì có tức tối giận hờn ? Tâm địa trống không, không có một vật gì, thì làm
gì có tức tối ?
Trong lòng không có bực tức, thì
làm sao có cơn giận ?
Thật ra tức tối không những tự
làm cho mình khổ đau, và những người xung quanh cũng theo đó mà buồn lòng. Lúc
tức tối tức giận, không gì ngăn cản cái miệng, buông lời quái ác, một số lời lẽ
trong đó có thể làm đau lòng người nghe, thậm chí có cả những người yêu thương
quan tâm mình.
" Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai “, chỉ một niệm khởi sân mà kết quả là muôn ngàn chướng ngại nẩy sanh.
" Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai “, chỉ một niệm khởi sân mà kết quả là muôn ngàn chướng ngại nẩy sanh.
Cho nên đừng nên vì sự việc nhỏ
nhặt mà gây ra chuyện hại người hại mình, tức tối la hét là hành vi của kẻ ngu
muội.
Tuy chúng ta chưa thể là một người
thông minh, nhưng tối thiểu chúng ta cũng đủ trí tuệ ngăn cản mình làm một con
người ngu dại. Xem nhẹ hơn mọi sự việc không như ý, đồng thời tìm thấy ich lợi
trong im lặng, giác ngộ ý thiền trong cuộc sống. Từ đó chúng ta sẽ cảm nhận cuộc
sống không cần phải mệt mỏi như ta tưởng, cũng không phài khốn khó như ta đã gặp.
Những sự việc nhỏ nhặt cũng giống
như những hạt cát trong đôi giày đã làm cho bạn khó chịu.
Thế thì bạn lựa chọn cách giũ bỏ
hạt cát hay vứt bỏ đôi giày ? Chúng ta không thể không mang giày, vì còn con đường
dài phía trước, thế thì tại sao chúng ta không chịu giũ bỏ hạt cát !
Hoàng
Long Joseph
Sưu tầm
Sưu tầm
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)