Thánh Gioan Lasan là bổn mạng của các nhà giáo dục, Ngài được thành công trong việc cung ứng một hệ thống giáo dục cho quảng đại quân chúng vào thời mà dân nghèo như bị bỏ rơi hoàn toàn. Nỗ lực của Ngài không phải chỉ trong việc mở trường mà là việc tạo lập nên một đoàn thể những nhà giáo dục được đào tạo chu đáo. Chính nỗ lực này đặt nền tảng bảo đảm cho sự thành công trong việc giáo dục.
Không phải khuynh hướng tự nhiên được đưa Ngài tới việc thực hiện công trình này. Thật vậy, hoàn cảnh gia đình với sự đào luyện từ thuở nhỏ khó có thể coi được là một chuẩn bị cho Ngài làm giáo dục. Sinh tại Reims ngày 30 tháng 4 năm 1651, Gioan Baotixita, là con trưởng trong một gia đình quý phái và được thừa hưởng địa vị lẫn gia tài của cha mẹ để lại. Những thứ này là vực ngăn cách Ngài với đám đông dân chúng nghèo khổ.
Vào tuổi 16, khi đang theo học ở Học viện dành cho trẻ em ưu tú (College des Bons enfants), thánh nhân được đặt làm kinh sĩ ở Reims. Sau đó Ngài tiếp tục theo học tại chủng viện Xuân Bích và đại học Sorbonne để làm linh mục. Ngài thụ phong linh mục năm 27 tuổi.
Cho đến lúc này, chưa có một yếu tố nào cho thấy rõ sứ mệnh tương lai của Ngài. Nhưng ít lâu sau, Ngài được chỉ định giúp vào việc lập trường ngay tại quê hương xứ sở mình. Việc này đặt Ngài và trách nhiệm săn sóc các giáo viên, dẫn Ngài tới chỗ đưa họ về nhà mình và đào luyện họ. Dần dần, Ngài hiểu rằng: Chúa quan phòng định cho Ngài làm dụng cụ kiến tạo một hệ thống giáo dục dành cho dân nghèo, lớp dân bị xỉ nhục trong "thế kỷ huy hoàng" vì sự hư dốn và ngu dốt của họ.
Chọn thánh ý Thiên Chúa làm nguyên tắc hứơng dẫn đời sống, Ngài quyết định hiến mình trọn vẹn cho công tác này. Ngài từ chức kinh sĩ, phân phát gia tài để mang lấy cũng một địa vị như các giáo viên Ngài chung sống. Làm như vậy Ngài làm cho những người đồng hương nặng đầu óc giai cấp tức giận. Nhưng điều ấy không thay đổi được quyết định của Ngài.
Năm 1684, Ngài biến đổi nhóm giáo viên của mình để thành một cộng đoàn an sĩ với danh hiệu Sư huynh. Các trường công giáo. Đây là nguồn gốc của hội dòng ngày nay, phổ biến rộng rãi khắp thế giới. Để giới hạn hội dòng riêng cho nỗ lực giáo dục, Ngài nhận định rằng: sư huynh nào làm linh mục, cũng như không nhận một linh mục nào vào dòng. Luật này ngày nay vẫn còn được áp dụng.
Những năm đầu, hội dòng rất nghèo khổ và cực nhọc. Tuy nhiên thánh nhân vẫn kiên quyết chịu đựng và vững tin ở Chúa quan phòng. Người nói với những người lo âu : - Tại sao mà không tin tưởng ? Chúa thà làm phép lạ còn hơn để cho chúng ta phải thiếu thốn.
Mối quan tâm chính của Ngài là đào luyện đạo đức và nghiệp vụ cho anh em. Nhưng, thấy không thể thỏa mãn được mọi đòi hỏi của giáo viên nếu không huấn luyện giáo viên, năm 1678 Ngài lập ở Reims một học viện cho khoảng 40 trẻ. Lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục có một cơ sở giáo dục như vậy.
Sau khi lập trường ở những thành phố lân cận, năm 1683, Ngài coi sóc một trường ở xứ Thánh Xuân Bích (Sulpice), là nơi Ngài đặt bản doanh của mình. Tại thủ đô công trình lan rộng mau lẹ. Ngài lập thêm một trường đào tạo nữa với một trường miễn phí cho các bạn trẻ đã đi làm việc. Khi vua Giacôbê III trao phó cho Ngài săn sóc các thiếu niên Ái Nhĩ Lan, Ngài đã dành cho họ các giảng khoá đặc biệt theo nhu cầu của họ.
Mục đích tốt đẹp của Ngài bị chống đối bởi những giáo viên trường nhỏ, vì mất học sinh và học phí. Họ kiện cáo Ngài. Trường của Ngài bị cướp phá. Ngài bị kết án và bị cấm không được mở trường đào luyện miễn phí ở phạm vi Paris. Dĩ nhiên Ngài cũng bị trục xuất khỏi thủ đô một thời. Nhưng công trình của Ngài đã lan rộng sang nhiều nơi khác và những cấm đoán kia không thể phá hủy nổi.
Ở Rouen, Ngài đã lập hai cơ sở quan trọng: một trường nội trú phải trả học phí, cho học sinh miền quê muốn hiến thân, và một trường phục hồi cho những trẻ em bụi đời. Cả hai đều rất thành công. Cha Gioan Baotixita trải qua những năm cuối đời ở Rouen để kiện toàn thành tổ chức, viết luật dòng chờ các sư huynh và hai tác phẩm Meditations (nguyện ngắm), Methode de la prière mentale (Phương pháp thực hành tâm nguyện)
Thánh Phêrô NGUYỄN VĂN LỰU, Linh mục (1812-1861)
Ngày 07 tháng 04
Hy sinh vì sứ vụ
Ngày 07 tháng 04
Hy sinh vì sứ vụ
Đọc lại toàn bộ lịch sử thời tử đạo Việt Nam, hầu như trong bất cứ cuộc tử đạo nào cũng thấy bóng dáng một linh mục bản quốc. Dầu hoàn cảnh khó khăn hiểm nguy, các vị đã can đảm hiện diện, hoặc hóa trang vào thăm giáo hữu ở trong tù, ban bí tích hòa giải và trao Mình Thánh Chúa; hoặc ít ra kín đáo đón các tín hữu bị đưa ra pháp trường và bí mật giải tội cho họ. Linh mục Phêrô Nguyễn văn Lựu là trường hợp tiêu biểu cho sự kiện này. Cha bị bắt khi đang lén vào làm việc mục vụ trong ngục.
Mục tử săn sóc đàn chiên
Phêrô Nguyễn văn Lựu sinh năm 1812 tại Gò vấp, Gia Định (Sài Gòn). Lớn lên cậu dâng mình cho Chúa, vào chủng viện và được gởi đi học ở Pénang, rồi được thụ phong linh mục. Cha được bổ nhiệm phụ trách nhiều giáo xứ như Mặc Bắc, Sa Đéc, Mỹ Tho. Cha thực thi nhiệm vụ một cách rất chu đáo, Cha chú tâm nhiều đến việc giảng dạy giáo lý, quan tâm đến từng gia đình trong sứ đạo, thường xuyên thăm viếng khuyên bảo họ. Các giáo hữu quý mến và sẵn sàng nghe theo lời của cha, ngay cả khi bị cha khiển trách lỗi lầm của họ. Cha Lựu chỉ mắc một tật nhỏ nhưng đã bỏ được. Vì gặp gỡ với dân đồng bằng Cửu Long, cha thường uống rượu với họ. Một hôm đang đi trên thuyền, cha mời linh mục Thuyết ở thuyền khác qua làm vài "xị", nhưng vị này nhất mực từ chối: "Tôi không uống vì nhiều lý do, uống rượu vừa tốn kém, vừa mất tỉnh táo, lại chẳng phải là gương tốt cho tín hữu". Ngay lúc đó cha Lựu đã ném ngay chai rượu xuống sông và nói: "Từ hôm nay tôi không uống rượu nữa". Và cha đã trung thành giữ lời hứa đó.
Đầu năm 1853, cha Lựu thoát chết một cách may mắn. Khi đó, cha đang là cha sở họ Mặc Bắc và vừa được bổ nhiệm đến nơi khác thì quan trấn phủ Vĩnh Long, theo mật báo, đến vay bắt cha. Cha Philipphê Phan văn Minh và ông trùm Giuse Lựu bị bắt thế mạng.
Năm 1860, cha Phêrô Lựu đang phụ trách xứ Ba Giồng thì có lệnh quan trấn bắt tất cả các tín hữu có tên tuổi ở Xoài Mút và Ba Giồng (gần Mỹ Tho) đưa về giam tập trung ở tỉnh. Vì thương anh em bổn đạo cha thường cải trang vào thăm viếng, ủy lạo.
Các tín hữu coi cha như thiên thần Chúa gởi đến đem cho họ lương thực Thánh thể, ân sủng và bình an. Để thực hiện điều này, có lúc cha phải bỏ tiền mua chuộc lính canh và thận trọng lời nói với cấp trên của họ.
Gương sáng trong ngục tối
Tháng 12.1860, một hôm trong lúc đang gặp các tín hữu trong tù, vô tình cha để một lá thư chìa ra miệng túi áo. Viên quan thanh tra trại giam đi qua trông thấy liền ra lệnh bắt giam. Biết không thể giấu được nữa, cha liền nhận mình là linh mục. Thế là cha được chia sẽ đòn đánh, tra khảo, dọa nạt chung với các tín hữu của mình. Từ nay cha không chỉ an ủi, động viên anh em bằng lời nói suông nữa, mà bằng chính mẫu gương cuộc đời của mình: Bất chấp mọi đau đớn sỉ nhục, nhất quyết giữ vững niềm tin, chứ không bỏ đạo. Các quan bắt cha xuất giáo, cha trả lời: "Đạo đã thấm nhập vào trong xương tủy, tôi làm sao bỏ được. Vả lại một người giáo hữu thường, một thày giảng còn không có quyền bỏ đạo, huống nữa tôi đây là đạo trưởng".
Nhận thấy mọi hình khổ đều vô ích, quan tỉnh Mỹ Tho liền lên án trảm quyết cha. Ngày 07.04.1861, quân lính dẫn vị chứng nhân đức tin ra khỏi cửa thành độ một cây số, rồi chém cha ngay bên vệ đường. Viên đao phủ vì mê tín, sợ người đã chết nhập vào mình, nên vừa chém xong liền quăng dao chạy trốn.
Thi hài vị tử đạo được các tín hữu thu lại đem về an táng chung với gông cùm và một chiếc bình đất vấy máu ngài. Về sau hài cốt của cha được dời đến đặt tại bàn thờ chính thánh đường Mỹ Tho. Năm 1960, hài cốt ngài lại được cải táng về nhà thờ chính tòa Sài gòn .
Ngày 02.05.1909, Đức Thánh Cha Piô X đã suy tôn cha Phêrô Nguyễn Văn Lựu lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Lm. Đào Trung Hiệu, OP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét