Suy
Tôn Lời Chúa
Chúa
Nhật IV Mùa Chay, Năm A – Ga 9,1-41
Thứ Tư – 26/3/2014
LỜI NGUYỆN MỞ ĐẦU
Muôn nước hỡi, nào ca ngợi CHÚA,
ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người!
Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt,
lòng thành tín của Người bền vững muôn năm.
ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người!
Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt,
lòng thành tín của Người bền vững muôn năm.
Thánh Vịnh 117 (116)
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã chữa người mù
từ thuở mới sinh, xin Chúa cũng chữa chúng con khỏi mù lòa về lòng tin để chúng
con tin tưởng tuyệt đối vào tình thương của Ngài. Xin Thánh Thần Chúa ngự đến
giúp chúng con hiểu, sống Lời Chúa qua Tin Mừng Ga 9,1-41 chúng con tìm hiểu chiều nay.
(Cộng đoàn hát: Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài
ngự đến…)
GỢI Ý TÌM HIỂU TIN MỪNG Ga
9,1-41.
LỜI MỞ ĐẦU
Kính thưa cộng đoàn!
Giáo Hội sẽ công bố Tin Mừng Ga 9,1-41 vào Chúa Nhật IV Mùa Chay – Năm A với
chủ đề:
LÀ
SỰ SÁNG, ĐỨC GIÊ-SU CHỮA NGƯỜI MÙ
TỪ THUỞ MỚI SINH ĐƯỢC SÁNG
A. TRÌNH
TỰ BÀI TIN MỪNG
Đoạn trích Tin Mừng khá dài, tuy nhiên
để dễ hiểu, chúng ta dựa vào bố cục sau đây:
Ga 9,1-5: Hoàn cảnh câu chuyện.
Ga 9,6-7: Việc chữa lành.
Ga 9,8-12: Người mù và những người
láng giềng
Ga 9,13-17: Nhóm Pharisêu điều tra
sơ bộ.
Ga 9,18-23: Cha mẹ anh mù bị thẩm
vấn.
Ga 9,24-34: Điều tra anh mù lần
thứ hai.
Ga 9,35-38: Từ sáng mắt đến sáng
tâm hồn.
Ga 9,39-41: Nhóm Pharisêu bị lên
án là mù quáng.
B. TÌM
HIỂU CHI TIẾT
Ga
9,1-5: Hoàn cảnh câu chuyện.
Mở đầu, trình thuật kể rằng, ra khỏi Đền
Thờ, Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ hỏi
Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến cho người này sinh ra đã bị mù, anh ta
hay cha mẹ anh ta?”
Người Do-thái thời Đức Giê-su vẫn quan
niệm khuyết tật hoặc bệnh tật thể lý là do hình phạt từ Thiên Chúa. Dân gian
Việt Nam cũng vẫn thường nói: Trời phạt,
Trời có mắt hoặc Chúa phạt tỏ tường. Các vị tư tế thời Cựu Ước đã liên đới
các khuyết tật, bệnh tật thể lý với tội lỗi là phương cách để duy trì quyền lực
của họ trên lương tâm dân chúng. Đức Giêsu giúp các môn đệ của Người thay
đổi ý nghĩ của họ: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh
ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của
Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh!”
Công trình của Thiên Chúa cũng là công trình của Đức Giê-su. Đó
là công trình cứu độ, yêu thương. Và cụ thể với trích đoạn Tin Mừng Ga 9,1-41,
công trình ấy được thể hiện nơi người mù như thế nào: làm anh ta sáng mắt thể
lý và sáng mắt tâm hồn để anh thấy được ơn cứu độ nơi Đức Giê-su.
“Bao
lâu còn ban ngày, Ta phải làm việc Đấng đã sai Ta; đêm đến không ai có thể làm
việc được nữa. Bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian.”
Ngày và đêm là thời hạn
cuộc sống và hoạt động của một người, thường được ví với một ngày lao động. Sứ vụ
của Đức Giê-su soi sáng cho thế gian, cũng được ví với một ngày lao động như
vậy (11.10). Dù biết rằng, việc Đức Giê-su hoạt động ở trần gian, chỉ gợi được
chút ít niềm tin nơi một số người Do-thái, nhưng Đức Giê-su vâng lệnh Cha, Đấng
đã sai Người, cứ tiếp tục lao công, bao lâu còn là ngày, tức thời sứ vụ của
Người còn kéo dài (8.56; x. Lc 13.32). Đêm đến (13.31) không thể làm được nữa.
Người cứ làm công việc của Cha cho đến giây phút cuối cùng đời mình. Khi nào
Người ra đi, chịu chết, đó là dấu đêm đến: Ánh sáng đã tắt. Thế mà Người
lại chính là “Sự sáng thế gian” (8,12;9,5).
Giả sử ta chỉ
hiểu như thế thì xem ra có chút chua xót hay ngậm ngùi trong giọng nói của Đức
Giê-su. Ngày thì quá ngắn, công việc thì nhiều (Mt 9,37; Lc 10,2), đúng như có
ai đó nói rằng: “Đường còn dài, mà trời lại sắp tối”. Thực ra không phải như
vậy! Điều sắp chấm dứt nói ở đây là công việc mặc khải cho người Do-thái, và
nói rộng ra là cho tất cả những ai nhắm mắt từ chối Người, tẩy chay Người. Câu
nói của Đức Giê-su không chút nào than vãn, chua xót về công việc của Người,
nơi thế giới sẽ chấm dứt với cái chết của Người. Vì công việc Người mặc khải
Thiên Chúa cho thế giới vẫn sẽ còn được tiếp tục qua các môn đệ, qua Hội Thánh
Người đã thiết lập trên trần gian, trong đó có cả chúng ta, những Ki-tô hữu hôm
nay, cũng phải tiếp tay với Người để lo công việc của Cha: Loan Tin Mừng cho
muôn dân thiên hạ, nghĩa là Sự Sáng vẫn tiếp tục hiện diện trên trần gian này.
Chẳng thế mà Đức Giê-su đã nói: “Chúng ta phải lao công vào các việc của Đấng
đã sai Ta”.
Ga
9,6-7: Việc chữa lành.
Trình thuật kể tiếp: Đức Giêsu nhổ nước
bọt xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, xoa bùn lên mắt người mù, đây là
việc thứ nhất; và bảo anh ta đến hồ Si-lô-ác mà rửa, đây là việc thứ hai.
Với cách chữa trị hết sức bình dân mà
giới y học xưa nay xem ra chẳng mấy vệ sinh vì dễ bị nhiểm trùng, và đứng trên
bình diện tôn giáo, cũng có thể xem như là tà thuật, nhưng Đức Giê-su đã thổi
vào đó một hiệu lực siêu phàm mới lạ nhưng rõ ràng. Nhờ vào cách thế ấy, anh mù
mới có cơ hội đi rửa mắt tại hồ Si-lô-ác. Đức Giê-su sai anh đi rửa mắt cũng là
một cách thử thách lòng tin của anh ta vào Người. Anh ta đã vâng nghe lời
Người, đi và trở lại thì được lành. Đây là phép lạ! Ý kiến
của thánh Gioan nói rằng Si-lô-ác có nghĩa là sai đến. Chúa
Giêsu là Đấng được sai đến bởi Chúa Cha để làm các công việc
của Thiên Chúa, những phép lạ của Chúa Cha. Phép lạ của việc “sai đến”
này là người mù đã bắt đầu trông thấy.
Ga
9,8-12: Người mù và những người láng giềng
Vấn đề anh mù được sáng mắt bắt đầu bùng
to, và gây rắc rối. Những người thường thấy anh, bố thí cho anh đã nhảy
vào cuộc, họ tìm hiểu xem anh có phải là kẻ mù thường ngồi ăn xin ở đó không,
tức là một chỗ nào ở ven bờ tường Đền Thờ. Còn những người láng giềng khi thấy
anh ta trở về với đôi mắt sáng, họ ngạc nhiên, họ không nhận ra anh ta nữa. Họ nghi
ngờ hỏi nhau: “Không phải hắn là tên ngồi ăn mày đó sao?”; kẻ bảo thế nọ:
“Chính hắn đó!” hoặc kẻ khác lại nói: “Không đâu! Nhưng là một đứa nào giống nó”
(c.9). Họ không đồng ý được với nhau. Còn anh ta thì quả quyết: “Chính tôi
đây”. Hành động của Đức Giêsu, vốn là Sự Sáng của thế gian, không đưa tới việc
ca ngợi hay tôn vinh Thiên Chúa sau khi chứng kiến phép lạ, nhưng lại đưa tới
sự chia rẽ. Chức năng của ánh sáng luôn làm phân rẽ.
Và họ hỏi anh: “Vậy, làm sao
mắt anh mở ra được như thế?” Người trước kia bị mù làm chứng: “Người
mà thiên hạ gọi là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: ‘Anh
hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa’. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy”. Họ lại hỏi: “Ông ấy ở đâu?” – Anh ta trả
lời: “Tôi không biết!” Họ không hài lòng với câu trả lời của người mù, và
để làm rõ vấn đề, họ liền dẫn anh ta đến trước những người Pharisêu, những kẻ
có thẩm quyền tôn giáo.
Ga
9,13-17: Nhóm Pharisêu điều tra sơ bộ.
Hôm đó là ngày Sabát và trong ngày
Sabát, người ta cấm chữa bệnh. Khi bị tra hỏi bởi những người Pharisêu,
người trước kia bị mù thuật lại mọi việc một lần nữa. Một số người Pharisêu,
mù quáng trong việc tuân thủ theo lề luật, nói: “Người này không thể nào
bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabát!” Họ không thể thừa nhận rằng Đức
Giêsu có thể là một dấu hiệu của Thiên Chúa, bởi vì Người đã chữa lành người mù
trong ngày Sabát. Nhưng những người Pharisêu khác, phải đối mặt với phép
lạ, trả lời: “Làm sao một kẻ tội lỗi lại làm được những phép lạ thể
ấy?” Họ cũng lại bất đồng ý kiến với nhau đám dân chúng trên! Vì
vậy, họ quay lại hỏi người mù: “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt
cho anh?” Và anh ta làm chứng: “Người là một vị ngôn sứ!”
Ga
9,18-23: Cha mẹ anh mù bị thẩm vấn.
Những người Pharisêu, nay được gọi là người
Do Thái, không tin rằng anh ta bị mù mà nay nhìn thấy được, vì họ nghĩ
rằng đó là chuyện lừa dối. Cho nên, họ đã gọi cha mẹ anh đến và
hỏi: “Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi
mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?”. Một cách rất cẩn thận, cha
mẹ anh ta trả lời rằng: “Chúng tôi xác nhận đây chính là con chúng tôi,
và nó đã bị mù từ khi mới sinh, nhưng làm sao mà bây giờ nó trông thấy, và ai
đã mở mắt cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông hãy
hỏi nó, nó sẽ tự thưa lấy!” Khôn lớn nói ở đây không phải tuổi thành
niên, mà tuổi có thể trả lời trước tòa án: Theo luật Do-thái, ít nhất là 13
tuổi.
Sự mù lòa của các người Pharisêu trước
bằng chứng của việc chữa lành tạo nên sợ hãi trong dân chúng. Và bất cứ
ai tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế thì bị trục
xuất khỏi hội đường. Cuộc đối thoại với cha mẹ của người mù tiết lộ sự
thật, nhưng những kẻ có thẩm quyền tôn giáo đã không chấp nhận điều này.
Sự mù lòa của họ trở nên trầm trọng hơn bởi vì lời chứng được đưa ra. Lề luật
chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật (Ga 8,17), nhưng giờ đây, họ đã
không chịu chấp nhận.
Ga
9,24-34: Điều tra anh mù lần thứ hai.
Họ lại gọi người trước kia đã mù đến và
bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa! Phần chúng ta, chúng ta biết ông
ấy là một kẻ tội lỗi.” Ở đây: “Hãy tôn vinh Thiên Chúa” là
một lời thề trước tòa án, và ở đây, có nghĩa là: “Hãy cầu xin sự tha thứ
vì lời nói dối mà anh vừa mới nói!” Người mù đã trả lời: “Người ấy
là một ngôn sứ!” Theo những người Pharisêu, lẽ ra anh ta đã nên
nói: “Người ấy là kẻ tội lỗi!” Nhưng người mù thông minh. Anh
ta trả lời: “Nếu đó là một kẻ tội lỗi, tôi không biết, tôi chỉ biết rằng
trước đây tôi bị mù và bây giờ tôi trông thấy!” Không có lời phản bác nào
về sự thật này! Lần nữa, những người Pharisêu lại hỏi y: “Người đó
đã làm gì cho anh? Người đó đã mở mắt anh thế nào?” Người mù trả
lời pha một chút mỉa mai: “Tôi đã nói với các ông rồi… Hay là các
ông cũng muốn làm môn đệ Người chăng?” Sau đó họ đã nguyền rủa anh ta và
bảo: “Mày hãy làm môn đệ của người đó đi, còn chúng ta, chúng ta là môn
đệ của ông Mô-sê, chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với Mô-sê, còn người đó chúng
ta không biết bởi đâu mà đến! Anh ta nói: “Nếu người này không bởi Thiên Chúa,
thì ông ấy đã không làm được gì”.
Đối diện với sự mù lòa của những người Pharisêu,
ánh sáng đức tin phát triển ở người mù. Anh ta không chấp nhận lập luận
của những người Pharisêu và thú nhận rằng Đức
Giêsu đến từ Chúa Cha. Lời tuyên xưng đức tin này
khiến anh ta bị trục xuất khỏi hội đường. Điều này cũng xảy ra trong các Giáo
Hội, và ngày nay cũng thế: Những ai quyết định trung thành với Chúa Giêsu thì
có nguy cơ bị loại trừ, hay ít nữa bị xếp vào loại công dân hạng bét trong xã
hội họ đang sống.
Ga
9,35-38: Từ sáng mắt đến sáng tâm hồn.
Đức Giêsu đã không bỏ rơi những kẻ bị
bách hại vì Người. Khi Đức Giêsu hay tin việc anh ta bị trục xuất. Người
gặp lại anh ta, Người giúp anh ta tiến
một bước xa hơn bằng cách mời gọi anh ta lãnh nhận đức tin và hỏi: “Anh
có tin vào Con Thiên Chúa không?” Anh ta thưa:
“Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Đức Giêsu đáp: “Anh đang
nhìn thấy Người; và chính Người đang nói với anh đây.” Anh ta liền
thốt lên: “Thưa Ngài, tôi tin!”, đồng nghĩa với: “Lạy Chúa, con tin!” Và anh ta sấp mình
thờ lạy Chúa Giêsu. Thái độ đức tin của người mù trước Chúa Giêsu là một
trong những sự tin tưởng tuyệt đối và chấp nhận hoàn toàn. Anh ta chấp
nhận mọi việc từ Chúa Giêsu. Đó là đức tin đã duy trì các cộng đoàn Kitô
hữu cho đến ngày nay.
Ga
9,39-41: Biệt phái bị lên án là mù quáng.
Người mù, đôi mắt thể lý không thể nhìn
thấy, cuối cùng lại sáng mắt hơn những người Pharisêu. Những người Pharisêu
nghĩ rằng họ sáng mắt hơn người mù từ thuở mới sinh. Tự trói buộc với một
lề luật cổ xưa, họ nói dối khi họ nói họ có thể trông thấy. Không ai có
thể mù lòa hơn những người không muốn nhìn thấy!
Tóm lại, con đường đức tin của người mù
cũng chính là con đường đức tin của mỗi Ki-tô hữu hôm nay: Lắng nghe Lời Chúa,
thực thi ý Chúa, và tuyệt đối tin tưởng vào Chúa Giêsu Ki-tô, Con Thiên Chúa,
và là Chúa của chúng ta. Amen.
GỢI
Ý SUY GẪM VÀ THỰC HÀNH
1/ Tôi có thể học được gì khi so sánh
phản ứng của người Pha-ri-sêu và cách đối xử của Đức Giê-su với người mù?
2/ Tôi có sai lầm không khi chỉ dùng đôi
mắt thịt để nhìn rồi phán đoán về người khác dựa trên dáng vẻ bên ngoài hoặc
địa vị xã hội của họ? Còn Thiên Chúa thì khác, Người nhìn thấy tận đáy lòng con
người chứ không nhìn dáng vẻ bên ngoài (1Sm 16,7).
3/ Người Pha-ri-sêu tưởng rằng họ làm
điều Thiên Chúa muốn, nhưng rốt cuộc họ hành động chống lại Thiên Chúa. Bằng
cách sống nào, tôi có thể tránh chính mình cũng làm như thế?
4/ Tôi đã được gặp gỡ Thiên Chúa cách
nào khiến tôi cảm thấy đủ tin tưởng vào kinh nghiệm thiêng liêng của mình để có
thể đứng vững khi người khác chất vấn tôi về niềm tin của tôi vào Thiên Chúa?
LỜI
CHÚA ĐỂ SUY NIỆM
1/ "Không phải anh ta, cũng chẳng
phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy
công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.” (Ga 9,3).
2/
Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian." (Ga 9,5).
3/ Kể cũng lạ thật! Các ông không biết
ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi!31
Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên
Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy.32 Xưa nay
chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh.33 Nếu
không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được
gì."
4/ "Thưa Ngài, tôi tin.", nói
xong, anh sấp mình xuống trước mặt Đức Giêsu.
LỜI
NGUYỆN
1. "Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế
gian". Chúng ta cầu nguyện cho Hội Thánh, nhờ các hoạt động tích cực
của Hội Thánh, mà luôn là hiện thân của Chúa Kitô, là muối cho đời, là ánh sáng
cho trần gian.
2. "Không phải do tội của anh ta, hay của cha mẹ anh,
mà anh bị mù". Chúng ta cầu nguyện cho những Kitô-hữu đang sống trong
tình trạng tội lỗi, sớm có cơ hội nhìn thấy tình thương Chúa, mà trở về, và tận
hưởng nguồn ơn cứu rỗi.
3. "Anh ta bị mù là để cho thiên hạ nhìn thấy công
trình của Thiên Chúa tỏ hiện". Chúng ta cầu nguyện cho mọi Kitô-hữu
biết dùng lời nói, việc làm, sức khoẻ và tật nguyền của mình mà làm cho danh
Chúa được cả sáng.
4. "Tôi đến thế gian này chính là để cho người không
xem thấy, được thấy". Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo
chúng ta, luôn sáng mắt đức tin, để nhận thấy Chúa ở khắp nơi, và giúp cho
nhiều người xem thấy Chúa.
Nhóm Tông Đồ Thánh Kinh
Gioa-kim Phạm Văn Lượng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét