WGPSG -- Đời người là một hành trình. Hành trình
đó khởi đầu khi con người cất tiếng khóc chào đời cho đến ngày đôi mắt
khép lại trở về với đất bụi, nơi con người sinh ra. Trong hành trình đó,
trong cõi nhân sinh, con người luôn thay đổi để đáp ứng với cuộc sống,
với con người.
Với những ai có đức tin thì đức tin của người đó cũng là một hành trình. Hành trình ấy cũng thay đổi với đời sống của con người, bởi lẽ con người có lúc mạnh lúc đau yếu thì đức tin cũng có những lúc kiên cường, và cũng có những lúc mềm lại khi gặp thử thách gian truân. Đức tin của con người còn ví như biểu đồ hình Sin. Biểu đồ đức tin ấy có cung độ, có trường độ và thời gian khác nhau trong đời sống của con người. Biểu đồ ấy có cung bậc, có mức độ khác nhau tùy nơi mỗi người khi sống và biểu lộ đức tin của mình.
Đức tin của cá nhân là như thế, của một nhóm người, của một dân tộc cũng không đi ngoài cái biểu đồ hình Sin.
Nhìn lại hành trình đức tin của nhân loại, ta thấy dân tộc Do Thái - dân tộc được Thiên Chúa yêu thương cách riêng - rõ nét nhất. Có những lúc dân được chọn đó có niềm tin mãnh liệt là tôn thờ chỉ mình Thiên Chúa, nhưng có những lúc cũng đã bỏ Thiên Chúa của mình để chạy theo thần này thần kia. Họ tưởng rằng thần này thần kia mới chính là Thần đã cứu họ ra khỏi ách nô lệ và giải thoát họ. Con bò vàng trong hành trình lịch sử cứu độ là thời điểm rõ nét nhất để ta thấy lòng tin của dân riêng. Đức tin rớt đến chỗ tận cùng, đi xuống cái vực thẳm trống rỗng trong lòng họ, để rồi đẩy Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của họ.
Hành trình đức tin của dân được chọn đó cứ ngã lên ngã xuống theo dòng chảy của thời gian. Cứ đứng dậy đi và rồi lại cứ té ngã. Kinh nghiệm ấy, ta bắt gặp trong suốt hành trình lịch sử cứu độ và cho đến cả ngày hôm nay. Được một cái hay đó là Thiên Chúa mãi mãi vẫn yêu thương chở che bao bọc dân tộc đó, con người đó dù cho dân tộc đó, con người đó có phản loạn, có bỏ Ngài để chạy theo thần khác. Thiên Chúa mãi mãi là một Thiên Chúa tín thành và yêu thương.
Và, chúng ta thử nhìn lại đức tin của tổ phụ những người tin là Abraham. Tổ phụ Abraham cũng không đi khỏi quy luật biểu đồ hình Sin đó trong đời sống đức tin của mình. Có những lúc ông cảm thấy cuộc đời chán chường và vô vọng, có những lúc ông muốn buông xuôi tất cả nhưng rồi với niềm tin son sắt, ông lại tiếp tục hành trình đức tin của mình trong sự chở che quan phòng của Thiên Chúa, để rồi ông được gọi cái tên hết sức dễ thương là "cha của những kẻ tin".
Không chỉ Abraham mà các ngôn sứ, những người được Thiên Chúa tuyển chọn và mời gọi để sống với Thiên Chúa, để nói Lời Thiên Chúa cũng vậy. Cuộc đời, đức tin của các ngôn sứ, của những người gọi là người của Thiên Chúa cũng "ba chìm bảy nổi chín lênh đênh". Có những ngôn sứ chán chường đến độ xin Chúa cho mình chết đi cho khỏe, đơn cử như Giôna. Giôna chán nản, yếu đuối đến độ nằm dưới cây thầu dầu và chờ... chết. Thế nhưng, Thiên Chúa đã ban cho ông mạnh sức và ông đã tin vào Thiên Chúa để tiếp tục hành trình đức tin của đời mình.
Một vị vua nổi tiếng mang tên Đavit cũng không thoát được cái thân phận yếu đuối của con người. Vì ham hố, ông đã cướp vợ của người khác và không dừng lại ở chuyện cướp mà ông còn đoạt mạng Ugia nữa. Nhưng, sau lần phạm tày đình đó, ông đã ăn năn hối lỗi và Thiên Chúa đã tha thứ lỗi lầm cho ông.
Cựu Ước là như thế, Tân Ước chắc cũng không khác cái hành trình đức tin lên lên xuống xuống như vậy.
Nhớ lại hình ảnh của các môn đệ là những người thân tín nhất, gần gũi với Thầy mình nhất nhưng niềm tin nó vẫn còn chông chênh như thế nào đó.
Giuđa, được Thầy và anh em tín nhiệm giao cho giữ túi tiền hẳn hoi. Thế nhưng, chẳng hiểu sao lòng dạ của Giuđa đổi thay. Giuđa đã bán Thầy với cái giá rẻ mạt. Nhưng rồi khi thấy Thầy bị tra tấn, bị giết thì lòng Giuđa lại đổi thay. Ở cái góc sân vườn trong Dinh Thượng Tế, hai ánh mắt "trộm" nhìn nhau. Giuđa nhìn Thầy với ánh mắt xin Thầy thương tha thứ, Thầy đã nhìn lại với ánh mắt chạnh lòng thương. Chỉ có hai ánh mắt ấy mới hiểu nhau trong giây phút ấy và Chúa Giêsu dĩ nhiên cũng tha thứ cho người môn đệ trót dại.
Phêrô, người anh cả của tông đồ đoàn đã hơn một lần khẳng khái khẳng định rằng ai bỏ Thầy nhưng con, con không bỏ Thầy. Thế nhưng, cũng chẳng hiểu sao lòng dạ đổi thay để chối Thầy không phải một lần mà đến ba lần. Đau đớn vô cùng khi hai ánh mắt đó lại "chạm" vào nhau trong sân Dinh Thượng Tế. Ánh mắt chạnh thương của Thầy Chí Thánh cũng sẽ tha thứ cho niềm tin bị lỗi nhịp nơi con người mỏng dòn và yếu đuối của Phêrô.
Và chúng ta, khi nhìn lên ánh mắt của Thầy Chí Thánh Giêsu, không khi nào chúng ta không bắt gặp, không cảm được lòng chạnh thương đó. Đặc biệt càng chạnh thương nơi những con người mỏng dòn và yếu đuối. Khi yếu đuối, khi phạm tội, khi sa ngã, lại chạy đến với Chúa để xin Chúa thứ tha và ban thêm lòng tin.
Hành trình đức tin của người Kitô hữu là như thế, để rồi Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, khi còn đương nhiệm, đã mở ra Năm Đức Tin để người tín hữu nhìn lại niềm tin của mình. Nhìn lại, rà soát lại niềm tin ấy để sửa sai, để chấn chỉnh, để xin ơn đức tin, để đi tiếp hành trình đức tin của mình. Cảm ơn Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã cho ta có dịp để nhìn lại hành trình niềm tin của mình.
Năm Đức Tin đang dần khép lại nhưng niềm tin của người Kitô vẫn còn là một hành trình, vẫn mở ra, vẫn tiếp tục lữ hành trong cuộc lữ hành trần thế đầy cam go thử thách này. Và, vẫn là con người yếu đuối tội lỗi, ta lại cứ phải chạy đến với Chúa để xin ơn đức tin.
Có những lúc đâu đó trong cuộc đời, ta bắt gặp hình ảnh của một vị Đavít nào đó phạm tội tày đình sống gần ta, một hình ảnh của Giuđa nào đó cạnh nhà ta đang bán Chúa, hình ảnh của một anh chàng Phêrô nào đó ngồi bên cạnh ta phản bội Chúa. Có thể ta dèm pha, có thể ta khinh khi, có thể ta nặng lời chỉ trích người đồng loại đó, nhưng biết đâu chừng, đến một lúc nào đó, ta còn tệ hơn họ. Và vì vậy, ta lại cứ phải xin Chúa tha thứ cho ta những yếu hèn lầm lỗi, và xin ban thêm đức tin cho ta, để ta sống trọn vẹn đức tin vào Chúa cho đến ngày cuối của cuộc đời ta.
Với những ai có đức tin thì đức tin của người đó cũng là một hành trình. Hành trình ấy cũng thay đổi với đời sống của con người, bởi lẽ con người có lúc mạnh lúc đau yếu thì đức tin cũng có những lúc kiên cường, và cũng có những lúc mềm lại khi gặp thử thách gian truân. Đức tin của con người còn ví như biểu đồ hình Sin. Biểu đồ đức tin ấy có cung độ, có trường độ và thời gian khác nhau trong đời sống của con người. Biểu đồ ấy có cung bậc, có mức độ khác nhau tùy nơi mỗi người khi sống và biểu lộ đức tin của mình.
Đức tin của cá nhân là như thế, của một nhóm người, của một dân tộc cũng không đi ngoài cái biểu đồ hình Sin.
Nhìn lại hành trình đức tin của nhân loại, ta thấy dân tộc Do Thái - dân tộc được Thiên Chúa yêu thương cách riêng - rõ nét nhất. Có những lúc dân được chọn đó có niềm tin mãnh liệt là tôn thờ chỉ mình Thiên Chúa, nhưng có những lúc cũng đã bỏ Thiên Chúa của mình để chạy theo thần này thần kia. Họ tưởng rằng thần này thần kia mới chính là Thần đã cứu họ ra khỏi ách nô lệ và giải thoát họ. Con bò vàng trong hành trình lịch sử cứu độ là thời điểm rõ nét nhất để ta thấy lòng tin của dân riêng. Đức tin rớt đến chỗ tận cùng, đi xuống cái vực thẳm trống rỗng trong lòng họ, để rồi đẩy Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của họ.
Hành trình đức tin của dân được chọn đó cứ ngã lên ngã xuống theo dòng chảy của thời gian. Cứ đứng dậy đi và rồi lại cứ té ngã. Kinh nghiệm ấy, ta bắt gặp trong suốt hành trình lịch sử cứu độ và cho đến cả ngày hôm nay. Được một cái hay đó là Thiên Chúa mãi mãi vẫn yêu thương chở che bao bọc dân tộc đó, con người đó dù cho dân tộc đó, con người đó có phản loạn, có bỏ Ngài để chạy theo thần khác. Thiên Chúa mãi mãi là một Thiên Chúa tín thành và yêu thương.
Và, chúng ta thử nhìn lại đức tin của tổ phụ những người tin là Abraham. Tổ phụ Abraham cũng không đi khỏi quy luật biểu đồ hình Sin đó trong đời sống đức tin của mình. Có những lúc ông cảm thấy cuộc đời chán chường và vô vọng, có những lúc ông muốn buông xuôi tất cả nhưng rồi với niềm tin son sắt, ông lại tiếp tục hành trình đức tin của mình trong sự chở che quan phòng của Thiên Chúa, để rồi ông được gọi cái tên hết sức dễ thương là "cha của những kẻ tin".
Không chỉ Abraham mà các ngôn sứ, những người được Thiên Chúa tuyển chọn và mời gọi để sống với Thiên Chúa, để nói Lời Thiên Chúa cũng vậy. Cuộc đời, đức tin của các ngôn sứ, của những người gọi là người của Thiên Chúa cũng "ba chìm bảy nổi chín lênh đênh". Có những ngôn sứ chán chường đến độ xin Chúa cho mình chết đi cho khỏe, đơn cử như Giôna. Giôna chán nản, yếu đuối đến độ nằm dưới cây thầu dầu và chờ... chết. Thế nhưng, Thiên Chúa đã ban cho ông mạnh sức và ông đã tin vào Thiên Chúa để tiếp tục hành trình đức tin của đời mình.
Một vị vua nổi tiếng mang tên Đavit cũng không thoát được cái thân phận yếu đuối của con người. Vì ham hố, ông đã cướp vợ của người khác và không dừng lại ở chuyện cướp mà ông còn đoạt mạng Ugia nữa. Nhưng, sau lần phạm tày đình đó, ông đã ăn năn hối lỗi và Thiên Chúa đã tha thứ lỗi lầm cho ông.
Cựu Ước là như thế, Tân Ước chắc cũng không khác cái hành trình đức tin lên lên xuống xuống như vậy.
Nhớ lại hình ảnh của các môn đệ là những người thân tín nhất, gần gũi với Thầy mình nhất nhưng niềm tin nó vẫn còn chông chênh như thế nào đó.
Giuđa, được Thầy và anh em tín nhiệm giao cho giữ túi tiền hẳn hoi. Thế nhưng, chẳng hiểu sao lòng dạ của Giuđa đổi thay. Giuđa đã bán Thầy với cái giá rẻ mạt. Nhưng rồi khi thấy Thầy bị tra tấn, bị giết thì lòng Giuđa lại đổi thay. Ở cái góc sân vườn trong Dinh Thượng Tế, hai ánh mắt "trộm" nhìn nhau. Giuđa nhìn Thầy với ánh mắt xin Thầy thương tha thứ, Thầy đã nhìn lại với ánh mắt chạnh lòng thương. Chỉ có hai ánh mắt ấy mới hiểu nhau trong giây phút ấy và Chúa Giêsu dĩ nhiên cũng tha thứ cho người môn đệ trót dại.
Phêrô, người anh cả của tông đồ đoàn đã hơn một lần khẳng khái khẳng định rằng ai bỏ Thầy nhưng con, con không bỏ Thầy. Thế nhưng, cũng chẳng hiểu sao lòng dạ đổi thay để chối Thầy không phải một lần mà đến ba lần. Đau đớn vô cùng khi hai ánh mắt đó lại "chạm" vào nhau trong sân Dinh Thượng Tế. Ánh mắt chạnh thương của Thầy Chí Thánh cũng sẽ tha thứ cho niềm tin bị lỗi nhịp nơi con người mỏng dòn và yếu đuối của Phêrô.
Và chúng ta, khi nhìn lên ánh mắt của Thầy Chí Thánh Giêsu, không khi nào chúng ta không bắt gặp, không cảm được lòng chạnh thương đó. Đặc biệt càng chạnh thương nơi những con người mỏng dòn và yếu đuối. Khi yếu đuối, khi phạm tội, khi sa ngã, lại chạy đến với Chúa để xin Chúa thứ tha và ban thêm lòng tin.
Hành trình đức tin của người Kitô hữu là như thế, để rồi Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, khi còn đương nhiệm, đã mở ra Năm Đức Tin để người tín hữu nhìn lại niềm tin của mình. Nhìn lại, rà soát lại niềm tin ấy để sửa sai, để chấn chỉnh, để xin ơn đức tin, để đi tiếp hành trình đức tin của mình. Cảm ơn Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã cho ta có dịp để nhìn lại hành trình niềm tin của mình.
Năm Đức Tin đang dần khép lại nhưng niềm tin của người Kitô vẫn còn là một hành trình, vẫn mở ra, vẫn tiếp tục lữ hành trong cuộc lữ hành trần thế đầy cam go thử thách này. Và, vẫn là con người yếu đuối tội lỗi, ta lại cứ phải chạy đến với Chúa để xin ơn đức tin.
Có những lúc đâu đó trong cuộc đời, ta bắt gặp hình ảnh của một vị Đavít nào đó phạm tội tày đình sống gần ta, một hình ảnh của Giuđa nào đó cạnh nhà ta đang bán Chúa, hình ảnh của một anh chàng Phêrô nào đó ngồi bên cạnh ta phản bội Chúa. Có thể ta dèm pha, có thể ta khinh khi, có thể ta nặng lời chỉ trích người đồng loại đó, nhưng biết đâu chừng, đến một lúc nào đó, ta còn tệ hơn họ. Và vì vậy, ta lại cứ phải xin Chúa tha thứ cho ta những yếu hèn lầm lỗi, và xin ban thêm đức tin cho ta, để ta sống trọn vẹn đức tin vào Chúa cho đến ngày cuối của cuộc đời ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét